GN - Ý nghĩa cầu nguyện trong đạo Phật không giống với cầu nguyện trong các tôn
giáo khác hay trong tín ngưỡng
dân gian. Cầu nguyện
thông thường là cầu xin, ước muốn điều
gì đó
như giàu sang, thi cử đỗ đạt, thăng quan tiến chức,
phát tài,… Người ta đem ước muốn này gởi đến một đấng thần
thánh nào đó mà họ cho là
thiêng liêng và cầu xin vị ấy giúp cho nguyện ước của họ thành hiện thực.
Tuy nhiên, trong đạo Phật thì khác. Người Phật tử hiểu rằng, không ai có thể ban cho
mình toại nguyện những
ước muốn, ngoại trừ những ước muốn đó là kết quả của những nhân duyên mà mình từng tạo ra trước đó. Người Phật tử tin luật nhân quả, tin rằng mình không thể trốn chạy nhân quả
bằng cách cầu xin tránh khỏi tai họa, bệnh tật, những rủi ro bất trắc, và không
thể cầu
xin có được bình an, hạnh
phúc khi mình chưa
từng hoặc ít gieo nhân duyên lành.

Một người phụ nữ cầm nến cầu nguyện trong một ngôi chùa Phật giáo ở công viên Badachu, Bắc Kinh
Hoa trái hạnh phúc chỉ có được khi nhân thiện
lành được gieo và chăm sóc chu đáo. Những hạt giống tốt đẹp (thiện nghiệp)
được gieo trồng và chăm bón, đến khi hội đủ nhân duyên
thời tiết thì tự động nó sinh hoa trái, không cầu cũng có. Những điều không hay, những rủi ro bất trắc trong cuộc đời là kết quả của những nghiệp bất thiện mà chúng ta đã tạo ra trong quá khứ đời này và những đời
trước. Việc cầu xin quyền năng của Đức Phật hoặc thần linh che chở, cứu giúp cho
mình thoát khỏi tai nạn hoạn họa cũng không có kết quả, bởi một khi nghiệp quả đã hình thành và chín muồi thì không cách gì trốn tránh được.
Đức
Phật dạy chúng ta có thể
tránh được nghiệp quả xấu một khi nó chưa hình thành bằng cách thay đổi tâm ý và tạo nhiều nhân duyên lành có tác dụng ngược lại với những nhân duyên xấu ác đã tạo, gọi là chuyển nghiệp.
Nếu ai đó có
thể thấy những điều sắp xảy đến cho chúng ta, là do những nhân duyên chúng
ta đã tạo trong quá khứ sắp tựu thành
kết quả, quả báo đang
dần dần tượng hình,
người có thần thông có thể biết trước. Dù chúng ta có tìm cách chạy trốn bằng
cách
nào đi chăng nữa vẫn phải
nhận lãnh quả báo (khổ hoặc vui) khi nhân duyên hội đủ. Nếu đã từng tạo nghiệp nhân thiện lành thì nhận
lãnh quả báo tốt đẹp; nếu đã từng tạo
nghiệp nhân bất thiện thì nhận lãnh quả báo xấu. Ví dụ như người tạo nghiệp nhân giết người thì sớm muộn gì cũng bị pháp luật xử tử hoặc
bị
người giết lại, quả báo này không xảy
ra trong hiện tại thì cũng xảy ra trong tương lai, dù có mưu thần chước quỷ, giở thủ đoạn luồn lách, trốn chạy cũng không thoát khỏi.
Đức Phật, chư Bồ-tát và các bậc hiền thánh đều từ bi muốn cứu khổ chúng sinh, nhưng không ai có thể làm trái lại luật nhân quả. Chúng sinh cứ
không ngừng tạo nghiệp, do đó
không ngừng thọ lãnh quả báo. Cũng như người nghèo khổ khốn khó vì đam mê rượu chè cờ bạc, nếu không chừa bỏ nghiệp đỏ
đen, say sưa, nghiện ngập thì
không thể có cuộc sống an vui hạnh phúc dù có người giúp đỡ.
Không chuyển những nghiệp xấu thì chắc chắn họ sẽ khổ, không khổ vì tù tội cũng
khổ vì bệnh tật, khó nghèo v.v… và không có thần thánh, phép màu nào cứu được.
Vì thế
mà người Phật tử không cầu xin quyền năng ban bố
phước lành, che chở hoạn họa. Vậy người Phật tử cầu nguyện điều gì? Việc cầu nguyện của người Phật tử mang một ý nghĩa khác. Chữ “cầu” trong đạo Phật không có nghĩa là “cầu xin” mà là mong ước, phát nguyện. Cũng như nói “Trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sinh”, không có nghĩa là trên “cầu xin” Phật đạo. Phật đạo
đâu ai cho mà cầu xin! Do đó “cầu” ở đây có nghĩa là “mong muốn đạt thành”. “Cầu”
chính là ý chí, là tâm hành (nghiệp).
Cầu nguyện trong đạo Phật không phải là xin Đức Phật ban cho mình điều gì, mà là thể hiện mong ước rồi nỗ lực, phấn đấu để thực hiện ước nguyện đó. Để
tránh hiểu lầm, kinh sách Phật giáo thường không dùng từ “cầu nguyện” mà chỉ dùng từ “nguyện” tức phát nguyện,
ý nguyện. Ví dụ
như: “Nguyện dứt trừ tất
cả điều ác, nguyện tu tất cả điều lành, nguyện độ tất cả chúng sinh” v.v…
Cầu nguyện trong đạo Phật là phát nguyện. Vì thế, người Phật tử cần hành trì giáo pháp để đạt được mong muốn,
ước nguyện của mình. Cầu nguyện và
hành trì phải gắn kết với nhau. Cầu nguyện giúp hành trì thêm tinh tấn, dũng
mãnh và ngược lại, hành trì mới giúp việc cầu nguyện có
ý nghĩa thiết thực.
Cầu nguyện thể hiện
chí hướng. Ví dụ như người tu Tịnh độ
phát nguyện vãng sinh, lập
chí hướng sinh về Cực lạc, nhưng phải hành trì niệm Phật hoặc quán tưởng, đồng
thời phải giữ giới, hành thiện, phát tâm Bồ-đề và tu tạo các công đức
phước lành.
Có tâm nguyện,
chí hướng mà không có hành động thiết thực để thực hiện
tâm nguyện,
chí hướng thì chẳng có ích gì. Cũng như người muốn trở thành bác sĩ, kỹ sư mà không chịu học hành, cứ ngồi đó mà mơ tưởng hoặc cầu khẩn thần linh thì không thể
thành tựu.
Chúng ta thường đến chùa cầu nguyện sự bình an, hạnh phúc cho
mình và người thân, thì chúng ta phải hành trì lời Phật
dạy, phải sống
như thế nào để
có được sự bình an. Không thể cầu nguyện
rồi cứ thản nhiên tạo các nghiệp ác, tạo các nhân duyên xấu; giao phó cho Đức Phật và các vị Bồ-tát bảo hộ cho mình.
Nhiều
người đến chùa vào
các ngày lễ lớn, đốt cả bó hương to và cắm bừa tứ tung mặc dù lư hương không
còn chỗ cắm; lấy bánh trái trên bàn
thờ, hái hoa bẻ cành cây kiểng nhà chùa để xin lộc; rải tiền lẻ đầy trên bàn
thờ Phật, Bồ-tát để cầu nguyện, những việc làm này chẳng những
không có ích mà còn tổn
phước bởi vì làm tổn hại và mất trang nghiêm nơi
cửa chùa thanh tịnh.
Người có niềm
tin, tín ngưỡng, dù là Phật
tử hay không phải là Phật tử đều cần phải
có chánh tín, tránh những
hành động tiêu cực, tà kiến, bất cứ việc
làm nào cũng phải có ý nghĩa và giá trị lợi ích thiết thực. Trong đạo Phật, việc cầu nguyện của người Phật tử phải khác với thế thường, không phải vì mục đích van xin, cầu cạnh. Nếu
mê tín, cầu cạnh, van xin sự bình an và lợi lộc thì đã tạo nghiệp tham,
si. Đồng thời là hình thức chắp tay khấn
nguyện
nhưng tâm niệm khác thì ý
nghĩa và giá trị của
hành động cũng khác.
Đạo Phật khuyến
khích cầu nguyện không chỉ cho bản thân mà còn cho người khác. Việc cầu nguyện điều gì đó
cho người khác mang ý nghĩa cao đẹp thể hiện tấm lòng của mình đối với
người đó, thể
hiện tình thân
thương, thể hiện tinh
thần từ bi, vô ngã, vị tha. Chẳng hạn như cầu nguyện cho ông bà cha mẹ mạnh khỏe, sống lâu, cầu nguyện cho gia đình bình an hạnh phúc, cầu nguyện cho quê hương, đất nước, cho thế giới, cho nhân loại, chúng sinh được thái bình, an lạc v.v…
Sau mỗi thời
kinh, người Phật tử
luôn phục nguyện hồi
hướng công đức phước báo của sự hành trì tu tập cho bản thân, gia đình và pháp giới chúng sinh, cầu tất cả chúng sinh được an vui, giác ngộ, giải thoát; nguyện được chân trí huệ sáng suốt, tiêu trừ tất cả
phiền não, tội
chướng… Nội dung cầu nguyện vừa cho
mình, vừa cho tất cả chúng sinh, không cá nhân vị kỷ, bình đẳng không phân biệt.
Tóm lại, việc phát nguyện thể hiện ý nguyện, chí hướng và quyết tâm của
chúng ta. Phát nguyện cũng là một pháp tu trưởng dưỡng đạo tâm, phát triển đạo hạnh và làm tăng trưởng công đức, phước báo cho người hành trì, tu tập
Chánh pháp. Một người Phật tử sơ
cơ khi phát nguyện tu tập các pháp lành, thọ
trì giới pháp, bỏ ác hành thiện
chính là đang “hồi đầu”
(quay đầu - chỉ mới
quay đầu lại thôi chứ chưa bước đi, hành trì mới là giai đoạn bước đi đến
đích), còn “khoảng
cách đến bờ giác ngộ, giải thoát, an vui” (giác ngạn,
bỉ ngạn) bao xa là tùy thuộc vào mức độ tinh tấn hành trì, tu tập, sự thực hiện lời nguyện của chính mình.