GNO - Từ ngày 4 đến
10-1-2013, môn đồ đệ tử tông phong tổ đình Nghĩa Phương long trọng tổ chức lễ
tưởng niệm húy nhật lần thứ 40 cố HT.Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo Phật giáo
Cổ truyền Việt Nam, vị tổ thứ 3 tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông
phong Nghĩa Phương Nha Trang.

HT.Thích Thiện Tâm đọc tiểu sử
Quang lâm chứng
minh và tham dự lễ tưởng niệm ngày 4, 5-1-2013 tại tổ đình Nghĩa Phương có
HT.Thích Thiện Bình, Phó Pháp chủ, Trưởng BTS THPG tỉnh Khánh Hòa; HT.Thích
Trí Tâm, thành viên HĐCM, Trưởng ban Nghi lễ T.Ư, Phó ban thường trực BTS
THPG Khánh Hòa cùng chư tôn đức Tăng Ni các tỉnh, thành phố Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, Gia Lai, Lâm Đồng, TP.Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Đồng Nai, chư Tăng
Ni các tự viện thuộc Tông phong tổ đình Nghĩa Phương cùng đông đảo Phật tử tham
dự.
Tại lễ tưởng niệm, HT.Thích
Trí Tâm đã tuyên đọc tiểu sử, ôn lại cuộc đời và sự nghiệp hoằng dương Phật
pháp của cố HT.Thích Bích Lâm.

HT.Thích Thiện Bình ban đạo từ

Môn đồ pháp quyến tưởng niệm Hòa thượng Thích Bích Lâm
Ban đạo từ, Hòa
thượng Thích Thiện Bình, Phó Pháp chủ đã tri niệm công đức của Tổ
sư và tán dương công đức của chư tôn đức Tông phông tổ đình Nghĩa
Phương đã truyền đăng tục diệm, thực hiện lời thầy tổ dạy, góp phần
xây dựng đạo pháp và giáo hội ngày một xương minh.
Song song với lễ tưởng
niệm tại tổ đình Nghĩa Phương (TP.Nha Trang), các chùa thuộc Tông phong Nghĩa
Phương do cố HT.Thích Bích Lâm khai sơn đều đã tổ chức trang nghiêm lễ giỗ Tổ khai
sơn từ ngày 4 đến 10-1-2013.
HT.Thích Bích Lâm, họ
Trần, húy thượng Chơn hạ Phú, tự Chánh
Hữu, hiệu Thích Bích Lâm. Ngài sinh ngày 24-11 năm Giáp Tý (1924) tại phường Đệ
Nhị, Nha Trang, Khánh Hòa.
Sớm có nhân duyên với Phật pháp, năm 8 tuổi (1932), ngài
được Tăng cang Hòa thượng Thích Phước Huệ, chùa Sắc tứ Hải Đức cho quy y, pháp
danh Chơn Phú.
Đến năm 1939, ngài được Hòa thượng cho tế độ, phú pháp
tự là Chánh Hữu. Năm 1945, Ngài thọ tam đàn Cụ túc tại chùa Sắc tứ Hải Đức do
Hòa thượng Phước Huệ tái thí Đường đầu, truyền trao giới pháp, phú pháp
hiệu Bích Lâm.
Năm 1946, ngài được đề cử trụ trì tổ đình Nghĩa
Phương.
Năm Nhâm Thìn (1952) tại Đại giới đàn tổ đình Thiên
Bửu, Ninh Hòa, ngài được tôn cử làm Tôn chứng sư. Năm Đinh Dậu (1957) tại Đại
giới đàn tổ đình Nghĩa Phương, Ngài được tôn cử làm Giáo thọ A-xà-lê.
Năm Kỷ Hợi (1959), Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo cổ
truyền miền Trung tổ chức Đại giới đàn tại Tăng học viện Trung phần (chùa
Phước Huệ, Nha Trang), đại chúng suy tôn ngài làm Đường đầu Hòa thượng truyền
giới.
Năm Canh Tuất (1970), ngài được cung thỉnh tái thí Đường
đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn chùa Phước Duyên, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh
Hòa. Với đức tính hiền hòa, được các môn đồ đệ tử kính phục, chư sơn hiền đức
mến thương nên giao cho ngài đảm nhiệm nhiều Phật sự như sau:
- Từ năm 1950 đến 1954: Ngài làm Tổng Thư ký Giáo hội
Tăng già tỉnh Khánh Hòa.
- Từ năm 1955 đến 1959: Là Tăng giám Trung Việt Giáo
hội Phật giáo Tịnh độ Tông Việt Nam.
- Từ năm 1960 đến 1968: Ngài đảm nhiệm chức vụ Chánh
Đại diện Trung phần kiêm Giám đốc Tăng học viện Giáo hội Phật giáo Cổ truyền miền
Trung.
- Từ năm 1969 đến 1971: Kiêm nhiệm chức vụ Phó viện trưởng
Nội vụ Viện Hoằng đạo Trung ương Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam.
Ngài đã thay mặt Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo Cổ truyền
đi hoằng pháp, thăm viếng thân hữu, Phật giáo các nước: Thái Lan, Nhật Bản,
Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc... Đồng thời để có người thừa kế sự nghiệp đạo
pháp nên ngài đã cử hai đệ tử là HT.Thích Trí Tâm, HT.Thích Trí Đức đi du học
tại Nhật Bản.
Ngài đã đại trùng tu ngôi Tam bảo Nghĩa Phương, từ
ngôi chùa nhỏ bé thành ngôi Già lam bửu điện ngày nay. Ngài đã khai sơn trên hai mươi ngôi tự viện tại Khánh Hòa
cùng các tỉnh miền Trung. Đệ tử xuất gia có gần 100 vị, trong đó có: cố Đại
lão HT.Thích Huệ Quang, cố HT.Thích Trí Giác (Huệ Hải), cố HT.Thích Huệ Đăng
(Trí Minh), cố TT.Thích Trí Hảo (Huệ Lạc), HT.Thích Trí Tâm (Huệ Minh),
HT Thích Trí Đức, Ni trưởng Thích nữ Diệu Nguyện (Huệ Hạnh)...
Ngài viên tịch ngày 24 tháng 11 năm Tân Hợi (1971),
trụ thế 48 tuổi, 26 hạ lạp.
|