NSGN - Cuộc chiến Trung Nhật
(1931-1945) là một trong những cuộc chiến tàn khốc nhất ở châu Á vào thế kỷ XX.
Ở Trung Quốc, cuộc chiến này được gọi là chiến tranh kháng Nhật (抗日戰争),
trong khi ở Nhật Bản nó được gọi là chiến tranh Trung Nhật (日中戰争). Bài viết này
không đi vào tìm hiểu về cuộc chiến này mà chỉ phác thảo một vài điểm có liên
quan đến Phật giáo ở trong cuộc chiến; nói cụ thể hơn là giới Phật giáo đã có
những hành động gì khi đứng ở mỗi bên của cuộc chiến, để thực hiện điều được
gọi là “hộ quốc” của mình.

Chư Tăng tại chùa Asakusa đang chuẩn bị tham gia cuộc chiến Trung - Nhật lần 2 (30-5-1936) Về phía Phật giáo Trung Quốc
Từ cuối và sau khi triều đại nhà Thanh sụp đổ (1912), Phật giáo Trung Quốc
rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng mà biểu hiện rõ nét nhất là ở giới
Tăng lữ. Dường như một điều tất yếu rằng, sự suy thoái của Phật giáo tại một
nơi nào đó thường bắt đầu từ giới Tăng lữ. Và mỗi khi rơi vào tình trạng suy
thoái, nếu chưa hoàn toàn biến mất, thường Phật giáo sẽ bị biến dạng theo chiều
hướng tiêu cực. Từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, khi những phong trào cải
cách xã hội bùng phát ở Trung Quốc, Phật giáo dưới mắt các nhà trí thức, đặc biệt
là giới trí thức trẻ ảnh hưởng phương Tây, đã trở thành một tôn giáo hủ lậu, lạc
hậu, làm cản bước tiến xã hội; do đó nó trở thành mục tiêu của sự công kích và
bài bác.
Trong bối cảnh đó, nhiều vị cao tăng có thao thức với tiền đồ Phật giáo
đã có nhiều việc làm chấn chỉnh lại Tăng đoàn Phật giáo, cũng như có những
phương thức tu tập và hành hoạt thích hợp để thích ứng Phật giáo với thời đại
cũng như để điều chỉnh lại cái nhìn của xã hội đối với Phật giáo. Nhân vật nổi
tiếng và có ảnh hưởng nhất của thời kỳ này là Đại sư Thái Hư (太 虚1889-1947), người đã có những sáng
kiến trong việc cải cách Phật giáo với phương châm “Phật giáo nhân gian” (人 間 佛 教), một hình thức Phật giáo mà về
sau này ta thường nghe đến là “Phật giáo nhập thế” ở một số nước Á châu khác.
Khi cuộc chiến Trung Nhật xảy ra, Phật giáo Trung Quốc đang đối mặt với
nhiều thách thức và cũng đang ở trong tiến trình cải cách của nó; và ở trong bối
cảnh đó, giới Phật giáo, đặc biệt là giới Tăng lữ, muốn chứng minh cho xã hội
thấy rằng họ là những người có ích đối với xã hội, hay ít ra là không thờ ơ với
những gì đang xảy ra ở trong đời sống xã hội. Việc tuyên bố hay giảng giải về
tính thiết thực và hữu ích của mình đối với đời sống xã hội chỉ trên mặt lý
thuyết là không đủ thuyết phục, chính những hành động cụ thể mới có thể chứng
mình được là Phật giáo ở bên ngoài hay bên trong xã hội và có ích gì cho xã hội
hay không.
Bên cạnh đó, bản Hiến pháp lâm thời của Trung Quốc lúc bấy giờ cũng
có những tác động nhất định đến Phật giáo. Cột 5 của bản Hiến pháp này viết rằng:
Tất cả mọi công dân của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bất kể tình trạng
sắc tộc, chủng tộc, nghề nghiệp, nền tảng gia đình, niềm tin tôn giáo và giáo dục,
có bổn phận thực hiện nghĩa vụ quân sự theo những điều khoản của luật này.
Như đã nói, Đại sư Thái Hư là một lãnh đạo Phật giáo uy tín nhất vào lúc
bấy giờ. Trước khi cuộc chiến xảy ra, Thái Hư có mối quan hệ rất tốt với nước
Nhật cũng như Phật giáo Nhật Bản. Ông đã từng đến Nhật vào năm 1925 để học hỏi
kinh nghiệm của Phật giáo Nhật và đã có
nhiều bằng hữu ở đó. Nhưng khi cuộc chiến xảy ra, ông đã phê bình Nhật Bản đã từ
bỏ tinh thần Phật giáo và kịch liệt chống lại sự xâm chiếm của Nhật. Những phản
đối của Thái Hư được thể hiện qua những phát ngôn, bài viết, hay những buổi diễn
thuyết. Và với vai trò một người lãnh đạo Phật giáo có uy tín, những lời nói của
ông đã có sự tác động rất lớn đến giới Phật giáo.
Cuối năm 1931, Thái Hư đã có
một buổi nói chuyện trên radio với chủ đề “Giáo lý Phật giáo và việc cứu quốc”.
Buổi nói chuyện này tập trung kêu gọi Tăng sĩ phải có trách nhiệm bảo vệ quốc
gia giống như những người thế tục. Trong một bài nói chuyện khác vào năm 1932 với
chủ đề “Phật giáo và hộ quốc”, Thái Hư lại đưa ra hai phương diện bảo vệ quốc
gia. Thứ nhất là bảo vệ quốc gia khi tai ách xảy ra, và thứ hai là bảo vệ tất cả
mọi người trên thế giới với tâm của một vị Bồ-tát. Đưa ra hai phương diện “hộ
quốc” như vậy nghe có mâu thuẫn.
Tuy nhiên trong một bài diễn thuyết khác cũng
vào năm 1932, Thái Hư có đưa ra hai ý nghĩa của “quốc gia”. Quốc gia như một đất
nước và quốc gia như một thế giới. Bảo vệ quốc gia như một đất nước được Thái
Hư thực hiện trong những năm đầu cuộc chiến, về sau vế thứ hai được ông quan
tâm nhiều hơn. Có lẽ do quan điểm này và sự thiện cảm của ông dành cho những
người Phật tử Nhật khiến có người cáo buộc ông là “kẻ phản bội”. Nhưng dù có
thiện cảm đối với người Phật tử Nhật, Thái Hư đã nhiều lần kêu gọi Phật tử Nhật
không nên tham gia vào quân đội và hãy hợp tác với Phật tử Trung Quốc chống lại
điều đó. Tuy nhiên không có người Phật tử Nhật nào hưởng ứng lời kêu gọi của
ông.
Giới Phật giáo Trung Quốc, dưới sự tác động từ nhiều mặt, lại bị cuốn
trong cơn lốc xoáy của chủ nghĩa dân tộc, đã tham gia vào cuộc chiến với nhiều
hình thức khác nhau. Một số tổ chức Phật giáo được hình thành để đảm trách về
công việc cứu tế và cứu thương, chẳng hạn như Đội cứu hộ Tăng-già Thượng Hải (上 海 僧 伽 救 護 隊) hay Đội cứu
hộ Tăng-già của Hội Phật giáo Thành Đô (成 都 佛 教 會 僧 伽 救 護 隊). Những tổ chức Phật giáo cũng đảm trách một
số công việc thiên về tôn giáo hơn, như tổ chức cầu nguyện hay những buổi lễ kỳ
siêu cho những người tử nạn.
Không dừng lại ở đó, nhiều Tăng sĩ trẻ đã tham gia huấn luyện quân sự để
tham dự vào cuộc chiến; chẳng hạn như tháng 12 năm 1937, có 300 Tăng sĩ trẻ đã
tham gia huấn luyện quân sự và gia nhập quân đội. Họ thực hiện điều này trước hết
là bởi sự dẫn dắt của “chủ nghĩa dân tộc” và thể hiện lòng “ái quốc”, nhưng
cũng để chứng minh cho xã hội thấy rằng Phật giáo thực sự vì lợi ích của quốc
gia, là tôn giáo hộ quốc (护 国), và như vậy
nó xứng đáng để tồn tại ở đất nước này. Nhưng việc tham gia vào cuộc chiến của
những Tăng sĩ lại là một vấn đề gây nên sự tranh luận, rằng sự “hộ quốc” bằng
việc “cầm súng” của họ có đúng với tinh thần của Phật giáo hay không, và Tăng
sĩ có nên làm việc cho một nhà nước thế tục trong những vấn đề chính trị và
quân sự hay không khi sứ mệnh của họ phải vượt qua khỏi biên giới của quốc gia.
Trước những câu hỏi như vậy, Thái Hư đã không trả lời, nhưng một Tăng sĩ
Phật giáo Trung Quốc đương thời khác là Lạc Quan (楽 観 1902–?)(1), trong một
bài diễn thuyết có tên là Hộ quốc và bảo vệ giáo pháp, đã trả lời như
sau: “Theo nguyên tắc Phật giáo, mục đích là hòa bình ở trong thế giới mà không
có biên giới chủng tộc và quốc gia; tuy nhiên, chúng ta không thể bỏ mặc quốc
gia khi chúng ta muốn thiết lập những tổ chức Phật giáo và truyền bá giáo pháp.
Chúng ta phải bảo vệ quốc gia của chúng ta, mà nó là y báo (依 報) của chúng ta, bởi vì chúng ta
sinh ra ở đó và quê hương xứ sở có một sự nối kết mật thiết với đời sống của
chúng ta. Nếu xứ sở nơi ta sinh ra và lớn lên bị đàn áp, kiểm soát và phá hủy,
thế thì chúng ta đánh mất chính chúng ta và chúng ta không thể sống được nữa. Nếu
chúng ta đánh mất sự tự do và khắp nơi khắp chốn bị kẻ khác hạn chế, chúng ta
có thể truyền bá Phật pháp sâu rộng và cứu độ quần chúng thế nào đây? Thêm nữa,
mặc dù giáo pháp Đức Phật chứa đựng nguyên tắc từ bi, chúng ta không thể từ bi
với những người hung ác. Chúng ta phải chiến thắng họ, bởi vì họ là những ma
vương hủy hoại trí tuệ và đời sống của dân chúng. Kinh Phật nói: "Từ bi với
ác ma có nghĩa là tàn ác với con người”...
Về phía Phật
giáo Nhật
Phật giáo có một sự ảnh hưởng sâu rộng vào đất nước Nhật Bản về nhiều
phương diện, kể cả chính trị và quân sự, điều có lẽ nhiều người đã biết. Từ lúc
du nhập cho đến về sau, Phật giáo Nhật đã luôn đề cao “tinh thần quốc gia” và
xem việc “hộ quốc” là một trong những nhiệm vụ chính của mình. Có lẽ cũng chính
điều này mà kinh Kim quang minh, một bản kinh được xem có công năng hộ
trì quốc gia (nếu được tụng niệm và hành trì), đã rất phổ biến ở Nhật.
Trước cuộc chiến Trung Nhật, Phật giáo Nhật cũng đối mặt với nhiều thách
thức lớn bởi những vấn đề đến từ bên trong và bên ngoài. Dưới thời Minh Trị
(Meiji), với việc công nhận Thần đạo (Shinto) là quốc giáo của triều đại này,
Phật giáo đã đối mặt với sự áp bức nặng nề. Để có thể tồn tại và thể hiện sự hữu
dụng của mình, Phật giáo Nhật đã có những thay đổi đáng kể nhằm thích ứng với
hoàn cảnh xã hội mới; và nó cũng thể hiện sự trung thành với triều đại như là một
tôn giáo luôn “đồng hành” cùng quốc gia.
Khi cuộc chiến Trung-Nhật xảy ra, chính vì để thể hiện sự “hữu dụng” và
tinh thần “ái quốc” cũng như sự trung thần với triều đại, Phật giáo Nhật đã hết
mình ủng hộ nhà nước Nhật và tham dự vào cuộc chiến có phần tích cực. Không chỉ
người Phật tử tại gia tham gia quân đội và có mặt ở Trung Quốc, giới Tăng sĩ Nhật
Bản cũng hiện diện ở đó để làm những công việc như: thực hiện những nghi lễ cầu
an, cầu siêu cho những binh lính Nhật tham gia cuộc chiến; giảng dạy Phật pháp
cho binh lính; an ủi và giúp đỡ những người bị thương; phân phát kinh sách; cứu
tế thực phẩm và những vật dụng khác; an ủi và trấn an dân chúng Trung Quốc;
thông tin cho bộ phái của họ ở Nhật biết tình hình cuộc chiến và những việc làm
của họ ở Trung Quốc; chuyển dịch tài liệu... Và cũng như Tăng sĩ Trung Quốc, một
số Tăng sĩ Nhật cũng tham gia trực tiếp vào cuộc chiến.
Các Tăng sĩ Nhật không chỉ giới hạn vai trò trong việc trợ giúp quân đội
Nhật đóng ở Trung Quốc, mà cũng có nhiệm vụ truyền bá Phật giáo trong việc ngăn
chặn sự truyền bá Thiên Chúa giáo của các phái đoàn truyền đạo từ Tây phương. Họ
cũng xây dựng trường học và thành lập những chương trình y tế. Vai trò này cũng
được các Tăng sĩ Nhật đảm nhận trong cuộc chiến ở Hàn Quốc. Lúc bấy giờ, một số
Phật tử Nhật nghĩ rằng, Nhật Bản là quốc gia Phật giáo chân thực nhất, và như vậy
họ có trách nhiệm trong việc bảo vệ và truyền bá Phật giáo không chỉ ở Nhật mà ở
cả những quốc gia bên ngoài Nhật Bản.
Sự tham gia của Tăng sĩ Nhật trong cuộc chiến này đã bị phê bình và chỉ
trích nặng nề, bởi bị cho là đã thỏa hiệp với “đế quốc Nhật” trong việc xâm chiếm
nước khác. Tuy nhiên đối với những Tăng sĩ Nhật, họ nghĩ rằng việc làm của họ
là để đem lại hòa bình cho thế giới. Họ “sử dụng thanh gươm” không phải để đi
xâm lăng hay để cướp đi mạng sống, mà đem đến sự bình yên và bảo vệ mạng sống
cho con người. Hay nói như một vị Đại sứ Nhật: “Rường cột của Nhật là được tìm
thấy ở nơi Võ sĩ đạo (Bushidō/武 士 道). Mặc dầu Võ sĩ đạo sử dụng thanh gươm, cốt yếu
của nó là không để giết người, mà thay vào đó dùng thanh gươm để đem đời sống đến
cho con người. Sử dụng tinh thần của thanh gươm Võ sĩ đạo, chúng tôi mong ước
đóng góp cho hòa bình thế giới” (Phát biểu của Đại sứ Nhật Saburō Kurusu vào
ngày 27-12-1940 tại lễ ký Hiệp ước ba bên giữa Nhật, Đức và Ý)...
Thay lời kết
Trong Phật giáo có bốn ân được đề cao, đó là: ân cha mẹ, ân Sư trưởng, ân
quốc gia, và ân Tam bảo; và bốn ân này thường được coi trọng như nhau mà không
bị đem ra cân lường ân nào trọng ân nào khinh. Tuy nhiên khi đặt vào trong sự lựa
chọn mang tính bắt buộc, sẽ có những lựa chọn khác nhau tuỳ mỗi người và tuỳ
trường hợp. Về ân quốc gia, với nhiều Phật tử, luôn là ân trọng nhất và sẽ vượt
qua ân Tam bảo nếu có sự lựa chọn giữa hai ân này.
Tất nhiên ân quốc gia muốn
nói ở đây không chỉ là sự thể hiện lòng biết ơn thuần túy không thôi, mà phải
có những hành động cụ thể trong việc xây dựng và bảo vệ quốc gia; và ân Tam bảo
không chỉ là sự biết ơn Tam bảo, mà có những việc làm bảo vệ đạo của mình và
không vượt qua những nguyên tắc căn bản mà tôn giáo của mình đưa ra. Nhưng cũng
đối với một số người, khi đứng trước sự lựa chọn này, họ sẽ cố gắng cân bằng để
làm sao có thể báo đáp được ân quốc gia với tất cả những nghĩa vụ của họ, nhưng
đồng thời cũng báo đáp được ân Tam bảo bằng việc không phá bỏ những nguyên tắc
tôn giáo mà họ đang theo. Nhưng cũng có người xem ân quốc gia là tối thượng, và
nếu họ đồng thời vẫn muốn giữ lấy đạo của mình, thì Phật pháp sẽ được giảng giải
theo cách mà nó sẽ mang lại lợi ích cao nhất cho quốc gia của họ. Những điều
này có thể nhìn thấy nơi những việc làm của giới Phật giáo tại Trung Quốc và Nhật
Bản trong cuộc chiến được đề cập ở trên.
Nguyên Hiệp
________________
(1) Lạc
Quan cũng là một Tăng sĩ từng học tại Nhật và đã du hành đến nhiều quốc gia
châu Á khác trong đó có Việt Nam.
Trước đó, khi đến học tại chùa 勝尾, nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật giáo Nhật, nghĩ về
tình trạng Phật giáo Trung Quốc, ông đã đặt tên cho mình là Bi Quan (悲観),
nhưng sau khi chiến tranh Trung-Nhật nổ ra vào năm 1937, ông đến Thượng Hải và
tham gia vào đội cứu tế của các Tăng sĩ, và đổi tên thành là Lạc Quan.