NSGN - Hơn 2.500 năm trước cho đến
ngày nay, lịch sử hoằng truyền của Phật giáo thực sự chính là một bộ giáo dục
sử quảng bác uyên thâm. Hết thảy thế gian này không chỗ nào không gói gọn trong
phạm trù giáo dục của Đức Phật. Thích Ca Mâu Ni sinh ra trong dòng tộc cao quý,
những thứ Ngài nhận được gần như đều thuộc giáo dục quý tộc; tuy nhiên, lúc
Ngài tiến hành triển khai giáo dục, thì hoàn toàn lại đứng trên lập trường tất
cả chúng sinh bình đẳng để thí giáo. Vì vậy, cách làm và tư tưởng giáo dục của
Ngài là thuộc đại chúng hóa, dân chủ hóa. Mục đích giáo dục của Đức Phật không
chỉ là mở mang, phát hiện tiềm năng hoặc là truyền đạt kinh nghiệm cho chúng
sinh, mà điều quan trọng nhất là cung cấp phương pháp giải thoát tự ngã cho hết
thảy chúng sinh.

Đức Phật giáo
dục (dạy dỗ) đệ tử, không dùng đến biện pháp
la mắng đánh đập, cũng chả cần
dùng đến cách cự tuyệt, quở trách - Ảnh minh họa Đức Phật thuyết Pháp, trải qua 49 năm ròng rã, giảng
kinh hơn 300 hội(1), đã từng giảng dạy, hành hóa khắp các thành thị
Ấn Độ. Những chân lý vũ trụ nhân sinh mà Ngài miệt mài trao truyền, được dẫn
giải qua truyện bổn sinh(2), thí dụ(3), nhân duyên (4),
trường hàng(5), trùng tụng(6) v.v…, tất cả là những lời khuyên bảo với nội
dung sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu. Mười hai phần giáo(7), Tam chuyển pháp
luân(8), Tứ tất đàn(9) của Đức Phật đều là cách nói pháp
theo lối đại chúng hóa. Giáo dục của Đức Phật rộng lớn, sâu sắc, đa dạng. Có
khi lấy sự tự tại biến hóa của thần thông(10) để nói Pháp; có khi
lấy lục căn(11) hỗ dụng, dương mày nhíu mắt, nhấc tay giơ chân để
truyền tâm. Với Đức Phật, muôn vật trong thế gian này không thứ nào không phải
pháp môn ngộ đạo, không một thứ gì không phải đề tài giáo dục.
Đức Phật giáo
dục (dạy dỗ) đệ tử, không dùng đến biện pháp la mắng đánh đập, cũng chả cần
dùng đến cách cự tuyệt, quở trách, phần lớn Ngài đều dùng phương thức cử thí
(nêu ra ví dụ) hoặc khích lệ, để đệ tử biết được đời người tốt lành, từ đó mà
không làm tổn thương đến danh dự của họ. Khả năng đặc biệt nhất của Đức Phật là
biết quan sát căn cơ của từng đối tượng mà dụ dẫn dạy bảo. Với người già cả thì
nói Pháp người già, với trẻ em thì nói Pháp trẻ em, với thương nhân thì nói
Pháp thương nhân, với quân nhân thì nói Pháp quân nhân. Đức Phật “ứng cơ thí
giáo, đối chứng hạ dược”, giáo dục ấy không chỉ khế hợp chân lý “Pháp nhĩ như
thị” (Pháp vốn như vậy), đồng thời còn khơi gợi “tự ngã giáo dục” (tự giáo
dục), như thiên kinh vạn luận đều hướng dẫn đại chúng cách phát hiện tự tính,
tự yêu cầu, tự giải thoát.
Đức Phật rất chú trọng giáo dục tự tâm. Các ví dụ
về tâm trong kinh Phật cho thấy là nhiều vô số kể, cụ thể như: Tâm như khỉ vượn
khó có thể kiểm soát; tâm như nháy mắt ánh chớp (sát-na/ksana); tâm như con nai
hoang rong ruổi thanh sắc; tâm như bọn trộm cắp, cướp giật công đức; tâm như
oan gia thân phải chịu khổ; tâm như kẻ tôi tớ phải gánh chịu nhiều phiền não;
tâm như quốc vương có thể chơi tửu lệnh; tâm như nước suối chảy mãi bất tận;
tâm như họa sĩ vẻ tranh ảnh; tâm như hư không rộng lớn vô biên… Đức Phật thuyết
pháp, hoàn toàn nhắm vào việc “trị tâm”, cho nên nói: “Phật nói tất cả pháp, để
trị tất cả tâm; nếu không có tất cả tâm, cần gì dùng đến tất cả pháp?”(12). Nay tóm nêu mấy phương pháp giáo dục của Đức
Phật như sau:
1- Mọi
người đều nhận được sự giáo dục như nhau (hữu giáo vô loại): Đức Phật không chỉ
nói đạo lý về xử lý việc chính sự cho người vừa có tiền lại có quyền như vua
Tần Bà Sa La(13) (Bimbisara), mà còn nói cảnh giới ngộ đạo cho
Thủ-đà-la (Sudda) Ưu Bà Ly(14) (Upali); không chỉ nói pháp duyên
khởi cho những người có lợi căn (căn tính nhạy bén) như Xá Lợi Phất
(Sariputra), mà còn nói pháp môn tịnh hóa tâm linh cho những người có thuần căn
(căn cơ chậm lụt) như Châu Lợi Bàn Đà Già (Cudapanthaka); không chỉ khiến cho
những người vô tham như Đại Ca Diếp (Kasyapa) xuất gia, mà còn khiến những
người đại tham như Nan Đà (Nanda) vào đạo; không chỉ nói pháp cho những nam
giới có trí, mà còn khai thị cho những nữ giới ngu muội; chẳng những ngợi khen
phu nhân Mạt Lợi (Mallika) trinh tiết, mà còn động viên cô gái Liên Hoa Sắc
(Utpalavarna) dâm đãng. Đức Phật giáo dục chúng sinh, không phân nghèo giàu quý
tiện, không từ kẻ trí người ngu hay cơ lợi tính thuần, Ngài đều giúp đỡ, giáo
hóa trên tinh thần bình đẳng không phân biệt.
2- Dạy
dỗ không biết mệt mỏi (hối nhân bất quyện): Đức Phật không vì chúng sinh lì
lợm, ương bướng mà quăng bỏ chúng, trái lại diễn thuyết vô lượng pháp môn, làm
lợi ích chúng sinh. Ví như người anh em họ của Đức Phật là Đề Bà Đạt Đa
(Devadatta) nhiều lần mưu hại Đức Phật, nhưng Đức Phật không những không có oán
hận, mà còn giáo huấn và cảm hóa một cách độ lượng; ngoại đạo Chỉ Man (Ương
Khuất Ma La/Angulimalya) được Đức Phật dùng từ bi cảm hóa nhiếp phục, cuối cùng
quy y Phật giáo; với sự cống cao ngã mạn của vua Thiện Giác (Suprabuddha), Đức
Phật đã không từ nan đưa ra ví dụ, khiến nhà vua giác ngộ; trước khi Đức Phật
‘thị tật’ (bị bệnh) vẫn thuyết pháp cho vị ngoại đạo Tu Bạt Đà La (Subhadra)
hơn 100 tuổi, đủ thấy Ngài là nhà giáo dục không biết mệt mỏi.
3-
Phương tiện thiện xảo: Đức Phật mượn ‘giấy gói đàn hương’ và ‘dây buộc cá’, để
nói với đệ tử về đạo lý “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”; Đức Phật dùng chậu
nhơ không thể chứa được nước pháp trong sạch, nhằm giáo dục La Hầu La (Rahula),
từ đó làm cho La Hầu La giác ngộ; Đức Phật dùng lời kệ “Con người phải luôn nhớ
nghĩ rằng, mỗi khi ăn uống nên biết điều độ, như thế các vị thức ăn sẽ dần nhạt
đi, sau khi nhạt loãng, thì mỡ trên cơ thể tự nhiên sẽ ít lại, trong lòng cũng
cảm thấy an nhàn vui vẻ từ đó mà được sống lâu hơn”(15), khiến vua Ba
Tư Nặc (Prasenajit) hiểu rõ nguyên lý làm cho sức khỏe dồi dào. Lại nữa, Đức
Phật dùng “hướng phong trịch thổ” (16), nói rõ người có ác ý hại
người, quả báo rồi cũng tự mình gánh chịu; “mang quy phù mộc”(17),
nói rõ nhân thân khó được; “tùng khẩn trung đạo” (chùng căng trung đạo), nói rõ
tu hành cũng như việc lên dây đàn, không nên chùng mà cũng chẳng nên căng;
“lưỡng quỷ tranh thi”(18) (hai con ma giành giật xác chết), nói rõ
chân lý vô ngã… Loạt ví dụ này, đều là do Đức Phật dựa vào cá tính, hứng thú, nhu
cầu của chúng sinh, dùng phương tiện thiện xảo để giáo hóa, phát huy nghệ thuật
cao nhất trong việc dạy học.
4-
Lấy mình làm gương (dĩ thân tác tắc): Việc giáo dục lấy mình làm gương của Đức
Phật thì chúng ta có thể thấy rải rác khắp trong các kinh điển, như Đức Phật
từng xe chỉ luồn kim giúp cho Tỳ-kheo (Bhikkhu) già cả bị lù lòa, cho thấy Ngài
đã gương mẫu thể hiện tình thương yêu, lòng từ bi vô hạn; Đức Phật tự tay gột
rửa những ô uế trên thân thể của Tỳ-kheo mắc bệnh, lấy việc làm cụ thể của bản
thân mình thay cho những lời giáo huấn; Đức Phật “khiêng quan tài phụ thân”,
đưa tang phụ vương, nói rõ trọng điểm của đạo hiếu ở đời; Đức Phật “ngồi đường
giữa trưa”, nói với vua Lưu Ly (Veluriya) đạo lý yêu nước “bóng mát che chở của
họ hàng thân thuộc là bóng mát che chở vững chãi hơn cả”… Tất cả điều này đều
là những việc cụ thể mà Đức Phật đã lấy mình làm gương.
5- Lấy
độc trị độc (dĩ độc công độc): Đôi khi “lấy độc trị độc” cũng là một trong
những phương pháp giáo dục của Đức Phật. Ví dụ Đức Phật lấy cái lý (cách/biện
pháp) của một ai đó, để trị lại ai đó (dĩ kỳ nhân chi đạo, hoàn trị kỳ nhân chi
thân), giáo hóa quỷ tử mẫu(19), khiến nó ăn năn hối cải lỗi lầm
trước kia, trở thành thần thủ hộ (bảo vệ) của các cháu thiếu nhi; Đức Phật dạy
mẫu thân của đứa bé đã chết đến nhà người ta dự viếng tang sự tìm lấy cỏ cát
tường, cuối cùng khiến bà giác ngộ đạo lý vô thường.
6- Lấy
xưa chứng nay (dĩ cổ chứng kim): Mượn các tích xưa của Đức Phật như “cắt thịt
hiến cho chim ưng”, “xả thân nuôi hổ”, cho đến “chim oanh vũ dập lửa”, “lông
của nai có chín màu sắc” (cửu sắc lộc)…, đều do Đức Phật chứng đạo bằng chính
nỗ lực của bản thân, để dẫn dắt, gợi ý tinh thần tự lợi lợi tha.
Ngoài sáu
phương pháp đã được khái quát, trình bày một cách cô động trên, còn có các
phương pháp giáo dục khác, cụ thể như “tùy hỷ công đức”, “hằng thuận chúng
sinh”, “phước huệ song tu”, “giải hành bính trọng” (trí giải và tu hành đều
được coi trọng ngang nhau).
Tư tưởng giáo dục và phương pháp giáo dục trong
Phật pháp, thực sự rất đáng được chúng ta xem như là chỉ nam (căn cứ để nhận rõ
phương hướng) của giáo dục. Các kinh luận Phật giáo, đều là cách hướng dẫn, chỉ
bảo chúng sinh làm thế nào để thân, khẩu và ý của con người trở nên đúng đắn,
hài hòa, và trọn vẹn nhất, làm cho chúng sinh buông bỏ mọi thói hư tật xấu như
tham lam, sân hận và si mê, từ đó mà có thể thay tâm đổi tính, sống một cuộc
đời lành mạnh, tự tại và an vui.
HT.TINH VÂN - NGUYỄN PHƯỚC TÂM dịch
(Nguồn: Tinh Vân (2008),
Phật giáo và thế tục, NXB.Từ Thư Thượng Hải, tr.118-122)
_________________________________
(1) Hình dung số lần thuyết pháp của Đức Phật là rất nhiều.
(2) Chủ yếu ghi lại
các câu chuyện về quá khứ trú tại thế gian của Đức Phật. Để hành đạo Bồ-tát,
Ngài đã biến hóa ra nhiều thân hình và thân phận khác nhau.
(3) Nhằm khiến con
người có thể dễ dàng lý giải nội dung ý nghĩa của giáo thuyết, mà đã sử dụng
các ví dụ thực tế hoặc chuyện ngụ ngôn để tiến hành thuyết minh, gọi đấy là thí
dụ.
(4) Ghi lại nhân
duyên Đức Phật thuyết pháp giáo hóa, giống như tự phẩm (kiểu bài tựa) của các
kinh văn.
(5) Một trong những
thể tài kinh Phật là thể văn chương không bị hạn chế số chữ. Nay nay gọi là tản
văn.
(6) Còn gọi là ứng
tụng, tương ứng với khế kinh (căn cơ khế hợp với chúng sinh, đồng thời kinh văn
khế hợp với chân lý, gọi là kinh Phật - từ này thấy trong Phật học thường kiến
từ hối - Từ điển điện tử), là dùng kệ tụng lặp lại nhằm làm rõ giáo pháp được
trình bày trong khế kinh.
(7) Là giáo pháp mà
Đức Phật thuyết giảng, y cứ vào hình thức và nội dung trình bày chia làm mười
hai loại. Còn gọi là mười hai bộ kinh, mười hai phần thánh giáo, mười hai phần
kinh.
(8) Còn gọi là ba
chuyển mười hai thuyết. Sau khi Đức Phật thành đạo, đầu tiên Ngài đến vườn Lộc
Dã (Mrgadava) ba lần tuyên thuyết pháp Tứ đế, độ năm vị Tỳ-kheo, cho nên cũng
gọi là tam chuyển pháp luân. Một là, thị tướng chuyển: Đây là khổ, tính bức
bách; đây là tập, tính chiêu cảm; đây là diệt, tính khả chứng; đây là đạo, tính
khả tu. Hai là, khuyến tu chuyển: Đây là khổ, các ngươi nên biết; đây là tập,
các ngươi nên đoạn; đây là diệt, các ngươi nên chứng (lĩnh hội); đây là đạo,
các ngươi nên tu. Thứ ba, tự chứng chuyển: Đây là khổ, ta đã biết; đây là tập,
ta đã đoạn; đây là diệt, ta đã chứng; đây là đạo, ta đã tu.
(9) Giáo pháp mà Đức
Phật hướng dẫn giáo hóa chúng sinh chia làm bốn phạm trù (bốn tiêu chuẩn về sự
thật - theo cách hiểu của Thích Nhất Hạnh), gồm thế giới tất đàn, vị nhân tất
đàn, đối trị tất đàn và đệ nhất nghĩa tất đàn.
(10) Là chư Phật
Bồ-tát, nương tu định tuệ lực mà thị hiện diệu dụng tự tại vô ngại, tổng chia
sáu loại: Thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc
mạng thông, và lậu tận thông.
(11) Chỉ sáu cơ quan
cảm giác, gồm nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, và ý căn.
(12) 佛說一切法,為治一切心; 若無一切心,何用一切法? (Phật thuyết nhất
thiết Pháp, vi trị nhất thiết tâm; nhược vô nhất thiêt tâm, hà dụng nhất thiết
Pháp?).
(13) Là vua nước
Ma-kiệt-đà (Magadha) thuộc thời đại Đức Phật, cùng với phu nhân Vy Đề Hy
(Vaidehi) đã quy y Đức Phật, cúng dường Tăng-già, hộ trì Phật giáo, là đệ tử
đầu tiên của Đức Phật trong hàng vua chúa.
(14) Một trong mười vị
đệ tử lớn của Đức Phật, vốn là thợ cắt tóc trong vương cung Thích Ca (Sakya).
Lúc Đức Phật về quê, theo Đức Phật xuất gia. Sau do giữ giới nghiêm túc, nên
gọi là “trì luật đệ nhất”.
(15) 人當自繫念,每食知節量,是則諸受薄,安消而保壽。(Nhân đương tự hệ niệm, mỗi thực tri tiết lượng,
thị tắc chư thọ bạc, an tiêu nhi bảo thọ).
(16) Một hôm nọ, Đức
Phật đến thành Xá-vệ (sravasti) khách thực, trên đường có một Bà-ma-môn xông
tới đùng đùng chửi mắng Đức Phật, Đức Phật vẫn bình thản tiến bước như chẳng hề
có chuyện gì xảy ra. Điều đó khiến vị Bà-la-môn này càng thêm căm phẫn. Ông ta
bèn cúi xuống vốc lên một nắm đất bùn ném thẳng về hướng Đức Phật. Kết quả, nắm
đất mà Bà-la-môn cố tình ném Đức Phật lại bị gió thổi ngược lại, thế là từ đầu
đến mặt của Bà-la-môn ấy dính đầy bùn đất. Điều này muốn nói lên rằng, nếu lấy
tâm sân hận để hại người, thì sẽ tự mình gánh chịu hậu quả, hệt như có ác ý vốc
đất ném người, thì đúng lúc bị nghịch gió thổi ngược lại, làm dơ bẩn chính
mình.
(17) Trong kinh
Tạp A-hàm (Samyuktagama) quyển 16 ghi chép: Nói với các Tỳ-kheo, như trong biển
cả mênh mông có một con rùa mù, sống lâu vô lượng kiếp, trăm năm mới ngóc đầu
lên một lần, lại có một cây gỗ nổi trôi, trong thân cây chỉ có một cái lỗ,
phiêu dạt lênh đênh, lúc Đông lúc Tây. Vậy rùa mù ngóc đầu tìm cây và chui vào
cái lỗ có dễ dàng không? Rõ ràng là khó mà gặp được, bởi rùa bị mù lòa, biển cả
mênh mông vô định, cây ấy lại theo hướng gió, chiều nước mà thay đổi không
chừng. Cũng vậy, kẻ phàm trôi nổi trong biển năm thú mà tái sinh được thân
người mới thật là khó hơn rùa gặp thân cây gấp mấy lần.
(18) Thí dụ hai con
quỷ, một to một nhỏ, cùng nhau giành giật thi thể, thuyết minh thân người vốn
là hình tượng hão huyền giả hợp, nếu như chúng ta cứ tính toán, chấp vào hình
tướng bên ngoài, rồi cho rằng đây là quan niệm của tôi, đây là quyền lợi của
tôi, đây là… của tôi. Hữu ngã là cội nguồn của khổ đau; vô ngã, mới là phương
thuốc kỳ nghiệm giải quyết vấn đề.
(19) Vốn là vợ
của ác thần, sinh được 500 đứa con, do kiếp trước phát tà nguyện, muốn ăn thịt
tất cả trẻ con trong thành Vương-xá (Rajagrha), Đức Phật muốn răn dạy, nên đã
phương tiện bắt giấu một đứa con cưng của bà ta, quỷ tử mẫu vì thế đã khổ đau
thống thiết. Đức Phật nhân đó mà dạy rằng: “Ngươi yêu thương con cái của ngươi,
người khác cũng yêu thương con cái của họ vậy!” Qủy tử mẫu nghe xong, liền quy
y Phật, và rồi sau đó đã lập thệ nguyện làm thần bảo vệ cho các em bé.