(Bài giảng
tại Học viện Phật giáo - TP.Hồ Chí Minh)
GN - Chúng ta tu, dành thì giờ đọc
kinh, sám hối, niệm Phật, tham thiền. Thầy muốn nhắc Phật tử tham thiền rằng phần
nội dung quan trọng hơn, không phải tham thiền chỉ là ngồi yên. Ngồi yên để trở
thành vô tri vô giác như gỗ đá là sai. “Tham” là chúng ta tham cứu, tìm hiểu vấn
đề gì để thực tập việc đó.
Thực tập pháp
thiền, ta tham cứu, tìm hiểu pháp thiền và tìm hiểu rồi thực tập, coi kết quả
đúng hay sai, như vậy là có tiến bộ, không phải thiền là ngồi để tính được nửa
giờ, một giờ, hay một ngày, làm như vậy không phải tham thiền theo đạo Phật.

Đảnh lễ Tam bảo - nhất tâm sám hối
Pháp thiền là
pháp tu có trước khi Phật ra đời, nhưng khi Phật hiện hữu trên cuộc đời và tu đạt
quả vị Phật, Đức Phật đã điều chỉnh pháp thiền, vì những người tu trước và tu đồng
thời với Phật cũng thiền, nhưng kết quả khác. Thực tế chúng ta thấy có thiền của
ngoại đạo là những đạo khác cũng tu thiền khác với thiền của đạo Phật.
Tất cả tôn
giáo đều dùng từ ngoại đạo để chỉ những đạo khác, thậm chí họ coi đạo của họ là
chánh, các tôn giáo khác là ngoại đạo. Nhưng chúng ta thấy có ngoại đạo chánh
và ngoại đạo tà, mà ta gọi là tà giáo ngoại đạo chỉ cho những sai lầm.
Một số người
tu theo Phật, nhưng lại rơi vào ngoại đạo tà giáo. Chúng ta nên tránh thiền của
ngoại đạo tà giáo, vì người tu thiền lạc vào tà giáo một thời gian, trở thành
điên khùng, gọi là lạc thiền. Tại sao. Vì là con người sống với tâm thức của
mình, nhưng tâm thức của loài người gần với tâm thức quỷ thần, giữa ma và người
gần nhau. Vì vậy, quý vị bắt đầu thiền sẽ lạc vào thế giới ma, đây là thế giới
tâm linh, nhưng thế giới tâm linh của chúng ta là vọng tưởng điên đảo, mà vọng
tưởng điên đảo là ma. Từ đó, người vọng tưởng điên đảo ngồi thiền là vô thế giới
ma liền. Thầy không dạy thiền vì lý do này.
Những người
đi chùa mà dụm năm dụm ba kể chuyện làm ăn tốt xấu. Tất cả chuyện của cuộc đời
chất chứa đầy tiềm thức, nên hai người gặp nhau là tất cả những thứ này ở trong
lòng họ liền bung ra. Gặp nhau thường nói chuyện bực bội, tức tối là phiền não,
vì nằm trong tham sân. Mình làm ăn thua lỗ, lường gạt là phiền não. Còn người
kia nói chuyện khổ là trần lao. Cuối cùng hai người tặng cho nhau phiền não trần
lao, nên mỗi ngày phiền não trần lao của họ tăng thêm, nghĩa là nghiệp chướng
tăng, mỗi ngày nghiệp chướng sâu nặng, thì phước mỏng lần. Từ đó, có người nói
sao tu mà khổ quá. Vì Phật tử tu mà tìm khổ, tìm phiền não đem vô lòng nuôi
sinh mệnh mình, thì sinh mệnh chúng ta là phiền não, trần lao, nghiệp chướng.
Phật dạy
chúng ta tu, cởi bỏ phiền não nghiệp chướng trần lao. Khởi đầu tu, Phật dạy
chúng ta tham thiền là thực tập pháp Thiền Tứ niệm xứ trước, đó là Thiền buông
bỏ. Quý thầy của Phật giáo Nguyên thủy thường thực tập pháp này suốt cả đời, tức
buông bỏ hết mà cũng chưa xong, tất cả những việc bên ngoài không đưa vô lòng nữa,
khác với người không tu đem phiền não trần lao nghiệp chướng vô lòng mình.
Người tu dẹp
bỏ cái cũ và không đem cái mới vô, nhưng việc cũ quá khứ nổi dậy thì chúng ta đẩy
ra và cái mới không cho vô tâm, đó là thực tập thiền. Vì vậy, mọi việc trên cuộc
đời đối với người tu coi như ảo giác, cuối cùng tất cả đều hoàn không. Biết như
vậy, ta không để tâm chỗ này, nên gọi cửa chùa là Không môn, hay buông bỏ tất cả.
Gọi người tu là xuất gia, đầu tiên bỏ tất cả việc thế tục, vì chúng ta biết rằng
chạy theo nó chỉ rước lấy khổ.
Thầy thấy người
đời lăn lóc làm đủ thứ để cố tìm cho được nhiều tiền của, nhưng Phật dạy rằng nếu
không có phước đức thì của
không giữ được. Thực tế cho thấy có người ráng làm để của cho con cháu, nhưng có ai để
được không. Con hư thì có để của bao nhiêu, nó cũng phá hết, vì nó không có phước,
không thể giữ của được. Nhiều người cha giàu có, quyền thế, con lười biếng cứ
phung phí tiền của cha, khi hưởng thụ phước này cạn kiệt thì phải trả quả báo
thảm hại. Thầy gặp con của công tử Bạc Liêu giàu có nổi tiếng một thời, nhưng
con cháu của ông này lại nghèo đói, lang thang. Vì vậy, để tiền của hại cho con hơn, vì nó
càng hưởng thụ, càng mau hết phước, vì không làm ra tiền, nhưng tiêu xài hoang
phí thì của nhiều đến mấy cũng không thể còn.
Người hiểu đạo
tiết kiệm phước như tiết kiệm máu của mình vậy. Riêng thầy tu hành, không có tiền
cũng không mượn tiền, hay có tiền, nhưng không hưởng, vì biết rõ có ít mà hưởng
nhiều, mau hết và bị đọa.
Nói về tham
thiền, chúng ta tìm hiểu xem ngoại đạo tà giáo làm gì. Vì tâm họ tà, nên khi ngồi
yên, tà ma liền tới với họ và cho họ biết việc này việc nọ, để họ tiếp tục lường
gạt, lừa dối, tạo thành vô số tội lỗi.
Thầy quan sát
những người tà giáo, phần nhiều họ luyện tập bùa ngải để ác ma tới với họ, giúp
họ trù ếm người khác. Những người tu như vậy là tà, không thể tồn tại lâu và hậu
vận của họ đều không tốt. Phật dặn đừng gặp thầy tà, nghe bùa chú thì tránh, vì
đó là tà. Theo tà giáo tuy có kết quả trước mắt, nhưng không thể được lâu dài,
thậm chí còn bị phản tác dụng, vì bùa sẽ quay ngược lại, hại mình.
Con đường thầy
đi theo Phật trải qua hơn 60 năm tu hành, từng bước đi lên, nghĩa là có tu, có
thực tập giáo pháp thì có kết quả tốt đẹp, đó là sự thật mà Phật dạy. Thật vậy,
Phật dạy phải trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp để đến Phật quả, không phải một ngày
mà được. Thường thì Phật tử tham, nghe việc gì dễ và hưởng lợi nhanh thì theo,
nghe bạn rủ chỗ nào có lợi liền là vội vàng đi. Vì vậy, bạn ác sẽ dẫn đến thầy
tà bày đủ thứ trò, cuối cùng bị phá sản. Thực tế cho thấy có người dùng bùa
chú, biết mình gặp khó khăn, họ bảo đưa tiền để họ cấp tốc làm giàu cho mình,
nghe vậy, sáng mắt đưa hết tiền cho họ. Có người đem một cọc bùa đến thầy, than
rằng đi tiếp không được, nhưng dừng lại thì chết, vì bị họ hù dọa nên rất sợ.
Thậm chí, có
người tu Tịnh độ nghe thầy tà nói rằng tu Pháp hoa chi cho cực khổ, lâu
lắc. Ông này bảo đảm tu Tịnh độ một tuần là vãng sanh! Nghe theo thầy tà này rất
nguy hiểm. Tu hành, chúng ta nên cẩn thận, phải tránh xa thầy tà bạn ác.
Trong thời kỳ
mạt pháp, Phật dạy rằng tà giáo rất nhiều, chánh giáo thì ít. Tà giáo thâm nhập
vào Phật giáo, họ vay mượn hình thức Phật giáo để cho người tin theo, bằng cách
thờ tượng Phật để họ làm chuyện khác.
Tu hành,
chúng ta suy nghĩ kỹ là tham cứu. Phật đi tu, Ngài cũng tham cứu và nhận thấy
các pháp của ngoại đạo sai lầm, nên Ngài bác bỏ. Phật chọn ông Kamala, dù ông
này chưa là Phật, nhưng pháp tu của ông cũng có kết quả đúng phần nào và tới gần
ông, cũng thấy tâm Ngài an lạc.
Thầy nhắc các
Phật tử khi tầm sư học đạo là tới vị sư nào, nếu tướng giải thoát họ hiện,
nghĩa là từ tâm hiện ra và tướng này đập vô mắt mình, làm mình cảm thấy an lạc
hơn. Nếu thấy sư mà mình bất an, coi chừng có tà bên trong.
Ông Kamala tu thiền, đắc thiền và pháp thiền đầu tiên của
ông chứng được gọi là Ly sanh hỷ lạc, thì không còn ham thích phú quý lợi danh,
nói cách khác, tâm ông Kamala được an lạc, vì không kẹt vật chất.
Trên bước đường
tu, quý vị cố gắng thực tập cho được, trước nhất là không để xã hội chi phối.
Người này rủ theo cái này, người khác rủ cái khác, nhưng mình không nghe theo,
vì mình không tin, không thiết tha gì nữa: “Trần duyên thuận nghịch, tâm không
thiết. Liễu ngộ Pháp hoa, chứng đạo thiền”. Còn nghe tiền, nghe được lợi
mà sáng mắt là lạc vào đường tà.
Dù mình không
cần vật chất, nhưng Phật dạy rằng nếu không cần mà cũng không có, là vì chưa có
phước, hay không cần mà có, vì có phước.
Mình không cần, nhưng không có gì thì có của hay không, cũng như nhau, là người
nghèo và người giàu bình đẳng theo lý này.
Người có của,
mình tìm cách xin là tà. Thầy tu, thực tập pháp này, không cần và đó là ý nghĩa
đầu tiên của giải thoát mà Phật chứng từ ngoại đạo Kamala.
Thiết nghĩ
ngoại đạo cũng có người tốt, không phải chê tất cả ngoại đạo. Có người cố chấp
ghét ngoại đạo. Một số Phật tử cực đoan nghĩ đạo Phật mình nhất và mình cũng nhất
là tăng thượng mạn. Đức Phật, đạo Phật mình nhất được, nhưng mình còn một bụng
tham sân phiền não. Người nghĩ mình nhất và gặp ai cũng chê là nguy hiểm, rồi lại
nói rằng tôi bảo vệ Phật giáo, ai đụng tới Phật giáo thì bước qua xác tôi. Như
vậy là người hung dữ quá.
Đạo Phật mà
chúng ta chọn là nhất đối với chúng ta thôi, người khác có cái của họ. Có tầm
nhìn thoáng mới có được bạn khác tôn giáo và mình cũng học được họ điều hay. Thầy
gặp Hồng y Mẫn, thầy chỉ ông pháp thiền và ông nói cho thầy nghe về pháp cầu
nguyện; như vậy là hiểu nhau. Ông lên đến Hồng y là có phước lớn rồi, chúng ta
phải nhìn nhận sự thật như vậy.
Phật học
Kamala, tìm được an lạc tâm bằng cách buông bỏ, không để xã hội chi phối. Ai
nói gì, làm gì, đừng để nó đi vào trong tâm chúng ta. Thầy thấy có hai cửa ngõ
đi vào tâm mạnh nhất là mắt thấy và tai nghe.
Vì vậy, tu thiền, đầu tiên tập bế quan, dán mắt, bít tai
lại, như người điếc, người đui, để không bị mọi việc của cuộc đời đi vào tâm.
Thực tập pháp này một thời gian, không thấy, không nghe, mình không biết gì và
lòng trống vắng, đó là tu thiền, bằng cách bế sáu giác quan, đầu tiên là ngăn
chặn mắt thấy tai nghe.
Vì nghiệp nặng
mà muốn thấy, nghe, biết nhiều chỉ khổ nhiều mà thôi. Tu tập, ý thức rằng nhiều
kiếp, mình đã biết nhiều quá rồi, cho nên bây giờ, muốn bỏ khổ, đừng đem điều xấu
bên ngoài vô lòng mình nữa. Tuy nhiên, khi bịt mắt, bịt tai để chúng ta trở
thành gỗ đá, không biết gì là tu sai.
Khi bế quan,
không nghe việc thế gian, nhưng nghe Phật pháp và hiểu biết cốt lõi của Phật
pháp, làm như vậy là tu thiền của đạo Phật. Vì mình không nghe, không thấy để
không bận tâm là bước thứ nhất, nhưng bước thứ hai, nên nghe Phật pháp và thấy
được điều tốt đẹp.
Riêng thầy,
thực tập thiền ở bước thứ hai bằng cách nhìn tượng Phật chăm chú và nghĩ về
hành trạng của Phật, không nhìn, không nghe những thứ khác.
Trên bước đường
tu, chúng ta đọc tụng kinh điển Phật. Thầy biết nhiều Phật pháp nhờ suốt đời đọc
kinh, không phải đọc bằng miệng, nhưng đọc bằng tâm mới quan trọng. Lúc nào tâm
thầy cũng đọc kinh là thiền.
Đọc kinh bằng
miệng là tu bên ngoài. Đọc kinh bằng tâm và thấy Phật bằng tâm là tu thiền, bấy
giờ chúng ta nhắm mắt và bịt tai lại, nhưng tâm chúng ta vẫn đọc kinh được.
Một số Phật tử
trong đạo tràng Pháp Hoa tu lâu và xin y nâu. Thầy hỏi thuộc kinh chưa. Chưa
thuộc kinh là chỉ tụng bằng miệng, không tụng bằng tâm. Tụng kinh bằng tâm thì
thuộc kinh lâu rồi. Thầy coi kinh một đoạn rồi xếp kinh lại và tâm thầy nhớ lại
đoạn kinh đã đọc, chỗ nào quên, thì thầy coi lại, đó là đọc kinh bằng tâm. Và
nhớ kinh rồi, thầy lấy kinh này để kiểm tâm mình. Thầy nhớ kinh nhiều và nhớ
lâu, vì luôn giữ kinh trong tâm.
Bắt đầu tu
thiền giai đoạn hai, chúng ta nhìn Phật, đọc kinh Phật, để đem hình ảnh trang
nghiêm của Phật và kinh vào lòng. Và hình ảnh Phật, Bồ-tát luôn luôn đẹp, công
đức các Ngài thì dễ thương, dễ kính, nên phiền não mình không sanh. Còn thấy
người mà mình bực tức là nghiệp sanh. Thấy Phật, nghiệp mình không sanh, giữ Phật
trong tâm lâu ngày, nghiệp tự mất. Vì vậy, thực tập thiền, lúc nào lòng cũng có
Phật.
Chúng ta tụng
Hồng danh sám hối thuộc lòng 80 danh hiệu Phật, từ Phật Phổ Quang đến Pháp giới
Tạng thân A Di Đà Phật. Đầu tiên, chúng ta nhớ tên Phật và nhớ tên Phật được rồi,
lòng chúng ta sẽ có hình ảnh Phật hiện ra, vì hình ảnh Phật luôn gắn liền với
tên Phật. Và từ danh hiệu Phật, chúng ta vào thiền, quán thấy vị Phật này từ
phát tâm Bồ-đề trải qua bao nhiêu kiếp hành Bồ-tát đạo, rồi thành Phật mang
danh hiệu này. Thí dụ, đọc tên Phật Thích Ca gợi chúng ta nhớ đến Ngài đản sanh
ở Ca Tỳ La Vệ, rồi Ngài xuất gia và thành đạo ở cội bồ-đề, thuyết pháp khắp
vùng Ngũ hà ở Ấn Độ và Ngài Niết-bàn ở Câu Thi Na. Trong thiền định mới thấy được
như vậy, giống như Trí Giả nói rằng Ngài thấy hội Linh Sơn chưa tan, thấy Phật
Thích Ca vẫn thuyết pháp; đó là thấy Phật bằng tâm và tâm này thu nhiếp quá khứ
cho đến hiện tại và cả vị lai. Chúng ta tu thiền để đạt được kết quả này, tức
đem quá khứ và vị lai đặt vô hiện tại là chứng thiền.
Chúng ta cần dành thì giờ đọc kinh, sám hối, tu thiền
để cắt phiền não bên ngoài, để tâm yên tĩnh, mới tiếp nhận được những pháp cao
quý của Đức Phật truyền trao.