(Bài giảng ngày 29-6-2017, tại
trường hạ chùa Phổ Quang, Q.Tân Bình, TP.HCM)
GN - Kinh Pháp hoa do Phật Thích Ca nói và
Phật Oai Âm Vương, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Phật Đại Thông Trí Thắng… cũng
nói kinh Pháp hoa, tức ba đời chư Phật đều
nói kinh Pháp hoa.
Trước khi nói
kinh này, Phật nói kinh Vô lượng nghĩa và Ngài nhập Vô lượng nghĩa xứ
tam muội, trời mưa hoa Mạn-đà-la, Mạn-thù-sa. Văn Thù Sư Lợi đã thấy hiện tượng
này từ thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, nên chắc rằng nay Phật Thích Ca cũng
nói kinh Pháp hoa.
Vì vậy,
chúng ta thấy kinh Pháp hoa khác với các kinh khác là Phật giảng xong, A
Nan hỏi tên kinh là gì và chúng ta phải thọ trì thế nào, tức tên kinh nói sau
cùng. Nhưng kinh Pháp hoa nói tên kinh trước, gợi ý rằng ba đời chư Phật
đã nói kinh này và Phật này nói, Phật
khác không lặp lại.

Người xuất sĩ rèn luyện oai nghi trên bước đường tu - Ảnh minh họa từ Pixabay
Thời Phật Oai
Âm Vương có vô số bài kệ kinh Pháp hoa và Phật Thích Ca đã học kinh
Pháp hoa với Phật Oai Âm Vương là điều quan trọng chúng ta nên nhớ học kinh
nhưng không chấp vào văn tự, mà phải suy nghĩ về ý nghĩa sâu sắc, suy nghĩ bằng
tư duy để nhận thức và chúng ta đi sâu vào thiền định mới hiểu nghĩa chân thật
của kinh.
Trên bước đường
tu, có vị chủ trương thọ trì bốn chữ Diệu pháp liên hoa, Phật giáo Tây Tạng dịch
là Om Ma Ni Pad Me Hum, nghĩa là viên ngọc nằm trong hoa sen. Viên ngọc tiêu biểu
cho trí tuệ, nên chỉ cần thọ trì bốn chữ này thôi.
Ngài Nhật
Liên chủ trương thọ trì 7 chữ Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh và nếu đọc thêm
kinh Pháp hoa thì chỉ đọc nửa phẩm Tùng địa dũng xuất, nửa phẩm Phân biệt
công đức và một phẩm Như Lai thọ lượng là đủ. Vì ba đời chư Phật đều nói kinh Diệu
pháp liên hoa, nên thọ trì Pháp hoa theo Bổn môn là thọ trì 7 chữ Nam-mô Diệu
pháp Liên hoa kinh của ba đời các Đức Phật. Còn thọ trì toàn bộ kinh Pháp
hoa là thọ trì Tích môn Pháp hoa của Phật Thích Ca.
Đối với hành
giả Pháp hoa, việc quan trọng là chúng ta suy nghĩ yếu nghĩa kinh và thực tập
có kết quả, đó là thọ trì Pháp hoa của ba đời các Đức Phật, mới được Phật hộ niệm,
Hộ pháp Long thiên giữ gìn và vượt qua tất cả các chướng ngại.
Người Việt
Nam thường nghĩ phải tụng đủ 28 phẩm kinh Pháp hoa, nhưng thực tế cho thấy
nhiều người tụng như vậy cả đời mà họ chẳng được gì.
Trường hợp Tề
Thiên uống ống nhổ của Tổ Bồ Đề Đạt Ma nghĩa là ứng dụng được tinh ba của pháp
Phật có kết quả tốt đẹp thực sự. Yếu lý này các giảng sư nên suy nghĩ khi ta chứng
ngộ, dùng hiểu biết chứng ngộ ấy mà truyền đạo thì phải khác, không thể lặp y
văn tự ngữ ngôn của người trước nói.
Đọc kinh Pháp
hoa, từ đầu đến phẩm cuối thứ 28, chúng ta cứ nghe nói đến kinh Pháp hoa,
nhưng không thấy Pháp hoa đâu cả. Đến phẩm Hiện Bảo tháp thứ 11, Phật Đa Bảo
nói rằng muốn nghe kinh Pháp hoa, nên tới đây để nghe. Như vậy, từ phẩm
Tựa thứ nhất đến phẩm Pháp sư thứ 10 có phải là Pháp hoa hay không.
Ngài Nhật
Liên lý giải rằng kể từ khi Phật Đa Bảo xuất hiện và phân thân Phật trong mười
phương tập trung lại, bấy giờ Phật mới nói kinh Pháp hoa, nhưng một lần
nữa, chúng ta có nghe thấy cái gì là kinh Pháp hoa đâu, mà chỉ nghe tiếp
phẩm 13 Khuyến trì và phẩm 14 An lạc hạnh, như vậy hai phẩm này có phải là kinh
Pháp hoa không.
Kinh Pháp
hoa mà Phật muốn nói là mở được tháp Đa Bảo chỉ cho cốt lõi, tức lấy được
viên ngọc quý trong chéo áo, hay viên ngọc trên đỉnh đầu. Trong kinh Pháp
hoa có thí dụ về người say ngủ được bạn cài hạt châu vào chéo áo, hay thí dụ
người đánh giặc có công được vua ban thưởng hạt châu trên đỉnh đầu của ông. Vì
vậy, việc quan trọng là chúng ta tu thế nào để phát hiện được hạt châu trong
chéo áo, hay hạt châu trên đỉnh đầu.
Thân tứ đại
ngũ uẩn này được ví là chiếc áo mình mặc, nhưng chết là cởi bỏ chiếc áo tứ đại
này thì hoặc là trở về bản lai diện mục, hoặc là bị cuốn theo nghiệp lực của
sinh tử trầm luân. Nghĩa là trong đãy da ô uế này có con người thực tiêu biểu bằng
viên ngọc và cũng có ác ma; đó là điều anh em nên suy nghĩ. Ma ở trong thân
này, Phật cũng ở trong thân này. Vì vậy, trên bước đường tu, chúng ta phải nhận
ra đâu là Phật, đâu là ma.
Nếu là ma bên
trong thân, nó sẽ xúi thân này làm những việc tội lỗi, nên động lực bên trong rất
quan trọng. Thầy Tỳ-kheo tu mà không khám phá được nguyên nhân bên trong thì tu
hoài công, không được gì. Nhưng tìm được động lực bên trong để chuyển hóa nó trở
thành tốt đẹp.
Động lực bên
trong anh em suy nghĩ sẽ thấy rõ như Phật dạy là lòng tham, bực tức và si mê.
Chính ba tên giặc này thúc đẩy chúng ta làm tội lỗi. Trong ngũ ấm ma, ba ma này
quan trọng nhất.
Thân tứ đại
là công cụ do ba ma này chỉ đạo và vô số ma khác thúc đẩy. Chúng ta tu gì. Tỳ-kheo
là bố ma, tức phá ma. Chúng ta tu là phá ác hết, ngăn chặn hết ma, gọi là hàng
phục chúng ma, ma nào khởi lên xúi bậy, chúng ta hàng phục nó liền.
Như vậy, kinh
Pháp hoa khởi tu là xây dựng mô hình đạo đức. Cho nên, trước khi nói
kinh Pháp hoa, Phật nói kinh Vô lượng nghĩa có ba phẩm là đạo đức,
trí tuệ và làm lợi ích cho chúng sanh. Điều này cho thấy thực nghĩa của Pháp
hoa là thể hiện trọn vẹn ba điều này, vì tu bao nhiêu bộ kinh nhưng đạo đức
không có, trí tuệ chưa sanh và không làm lợi ích cho ai thì không phải là Pháp
hoa.
Thể hiện yếu
lý vừa nói, Tỳ-kheo khởi tu phải rèn luyện đạo đức trước. Tỳ-kheo luyện tập 4
oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm theo cung cách trang nghiêm. Nhờ vậy, thầy Tỳ-kheo
tâm an lạc giải thoát, nên dáng đi nhẹ nhàng, thanh thoát. Người bực tức, buồn
phiền sẽ hiện rõ trong dáng đi thấy đáng sợ.
Hòa thượng
Trí Thủ thường nói Tỳ-kheo đi từ xa trông thấy đẹp. Vị khác nói đi như mây bay,
hay không thấy đi. Khi chúng ta nhẹ nhàng giải thoát không bị ma sai khiến,
chúng ta vô tâm. Thật vậy, thầy Tỳ-kheo hay Thiền sư đi, chim vẫn đậu trên vai
họ, vì tâm họ hoàn toàn thanh thản, vô sự.
Dáng đi của Tỳ-kheo
đẹp vô cùng, đến gần nhìn kỹ thấy đẹp hơn và sống chung, chúng ta học được nhiều
điều tốt của họ. Vì vậy, kinh nói ai gần Tỳ-kheo như vậy cũng được an lạc. Gần
Tỳ-kheo mà cảm thấy e sợ, thì ai dám gần. Riêng tôi, nói rằng ai gần người này,
tâm cũng được an và thấy vô số chư Phật, mau đến Vô thượng Bồ-đề; vì tâm Tỳ-kheo
an đến mức tác động cho người thân cận an theo, tạo điều kiện cho họ dễ dàng
thăng hoa đời sống tâm linh.
Trong kinh Hoa
nghiêm, trước tiên, Thiện Tài học với Đức Vân Tỳ-kheo có đức hạnh thể hiện
thành dáng đi nhẹ nhàng như mây bay, nên có tên là Đức Vân.
Đức Vân đạt đến
ba ngàn oai nghi. Lấy 4 oai nghi nhân cho 250 giới của Tỳ-kheo thành một ngàn
oai nghi và kết hợp với ba nghiệp của thân, khẩu, ý, thành tựu ba ngàn oai
nghi, đạt được quả vị A-la-hán.
Oai nghi chưa
có, chắc chắn bị ma chướng, không thể tiến tu đạo nghiệp. Vì vậy, anh em ráng
giữ oai nghi là giữ giới chuyển thành đức. Khi thọ giới, giới sư nhắc rằng cần
thực tập 250 giới cho tròn đến ba ngàn oai nghi. Tới đây, chúng ta mới bước qua
giai đoạn hai là thính giáo tham Thiền, nghĩa là tu giới trước và tu huệ sau.
Tu huệ trước nhưng không có giới, nguy hiểm, vì biết nhiều nhưng không có đức hạnh
thì dễ dàng tạo tội, trở thành tăng thượng mạn.
Bắt buộc có
giới mới thính giáo, tham thiền. Thính giáo là học kinh, tham thiền là thực tập
kinh và kết hợp hai phần này để sanh trí tuệ.
Muốn có kinh Pháp hoa phải trải qua ba giai đoạn.
Một là phải có giới đức làm hàng rào an toàn cho giới thân huệ mạng của người
tu. Thật vậy, các thầy tu cho đủ 250 giới ứng vô 4 oai nghi và kết hợp với thân
khẩu ý để có đủ 3.000 oai nghi, thì ở đâu cũng rất yên ổn. Còn chưa yên ổn, vì
là Tỳ-kheo phá giới thì làm gì cũng là ma sự.
Giữ giới
thanh tịnh, Phật mới hộ niệm và thọ ký cho ta, Bát bộ Thiên long mới giữ gìn
ta. Có Phật hộ niệm, việc khó cũng làm được. Phật không hộ niệm, sử dụng khôn dại
của con người thì một ăn hai thua. Tôi thấy người khôn hơn tôi, nhưng cuộc đời
họ lao đao lận đận, cho đến thân tàn ma dại.
Khôn dại của
con người là sở trường của người đời, không phải là sở trường của Tỳ-kheo. Sở
trường của Tỳ-kheo là giữ giới, là nhẫn nhịn, không phải tranh cãi, hơn thua.
Kinh nói có tên Bà-la-môn nói lời độc ác với Ngài từ sáng tới chiều và còn
thách thức Phật đọ sức với hắn, Phật chỉ mỉm cười.
Tu hành,
chúng ta nỗ lực phát huy sở trường, gặp việc đáng giận, đáng buồn, chúng ta
không giận, không buồn và chúng ta đứng ngoài mọi việc tranh chấp.
Chúng ta có sở
trường của người tu, người đời có sở trường đấu tranh. Nếu lấy sở đoản của Tỳ-kheo
mà đọ với người đời, làm sao hơn được họ. Họ lấy giáo lý đập Tỳ-kheo chết dễ
như không, họ sẽ chỉ trích ta tu mà dữ, tu mà thích ăn thua đủ... Vì người đời
tính toán đủ thứ, còn người tu thì Phật cấm hết, nhưng nếu ta làm là phạm tội,
bị loại bỏ.
Phải tu đủ ba
ngàn oai nghi. Ba ngàn oai nghi không đếm hết, nhưng tu được một oai nghi nào
thì người ta thấy được cái tốt của ta, nên họ muốn gần gũi để học với ta, thậm
chí bênh vực ta.
Kinh nghiệm
tôi tu hơn 60 năm được bình yên nhờ tới đâu cũng được người ta thương, không phải
tôi giỏi. Thương thì họ giúp, việc khó mấy cũng xong, còn ghét thì họ hại, khó
trốn khỏi.
Xây dựng ngôi
chùa Phổ Quang này, phải nói nhờ trước kia ông Triết làm Bí thư Thành ủy thương
Phật giáo. Không xây chùa được, nhưng cho xây nhà truyền thống là thương tìm
cách giúp. Không thương, bị kiếm chuyện, việc nhỏ xíu cũng không được. Người
thương quý thì cúng dường cả tỷ bạc, không thương, bát cơm cũng không cho, còn
ghét thì tìm cách lấy, dù chỉ là bao cát.
Muốn biết đạo
đức tới đâu, hãy coi xung quanh người thương mình nhiều, hay người ghét nhiều.
Các thầy sau này làm đạo, tới đâu có duyên là được người thương. Riêng tôi,
lãnh đạo Phật giáo TP.HCM nhờ Tăng Ni, Phật tử và chính quyền thương, nên làm
được việc ở thành phố này. Nếu bỏ tôi ở chỗ khác, không chắc làm được.
Giai đoạn
hai, thính giáo tham Thiền, Phật dạy quán nhân duyên. Quán xem từ đâu mình sanh
lại đây và chết về đâu. Phật giáo Nguyên thủy luôn cân nhắc ý này.
Nghiệp sanh lại
thì gặp những điều không bao giờ muốn, cái không muốn luôn tới gọi là dẫn nghiệp
phải thọ quả báo. Vì vậy, thính giáo tham Thiền là học kinh và vào Thiền quán
sát nhận ra mình từ đâu sanh lại đây. Có vị nói rằng tự nhiên ai bắt họ bỏ vô
nhà ngũ uẩn đen tối là đem linh hồn nhốt vô thân, nên phải khổ vì thân, đầu
tiên phải ăn uống, ngủ nghỉ, tắm giặt… phiền phức quá. Người ở cõi Trời xuống
có cảm giác này, vì ở trên Trời, họ đâu cần ăn.
Mang vô thân
tội lỗi nặng nề này thật là phiền quá, người tu thiệt có thính giáo tham Thiền
nhận ra điều này. Điển hình là Thuận Trị hoàng đế được Ngọc Lâm khai ngộ, nói rằng
ông ở Cực lạc sanh lại cõi này rồi lao vào chiến tranh bất tận, chém giết vô số
người, tạo tội lỗi đáng sợ. Ông mới bỏ ngai vua, đi vào Ngũ Đài sơn tìm Bồ-tát
Văn Thù để hỏi chuyện này.
Khi được thầy
khai ngộ, ông sáng ra là phải có Phật tri kiến mới khai được. Vì Thuận Trị
hoàng đế từ Cực lạc sanh lại đây là ông đã có hạt giống trí tuệ của Cực lạc rồi, nên được Ngọc Lâm khai ngộ là ông nhận ra liền
Cực lạc. Nói cách khác, ai có nhân duyên căn lành thì thầy khai ngộ dễ dàng. Chẳng
hạn Huệ Khả gặp Tổ Đạt Ma mới khai ngộ được, vì Tổ đã ngồi quay mặt vô vách đến
chín năm, nhưng sau đó chỉ độ được một người là Huệ Khả thôi.
Trở lại kinh Pháp
hoa, có hai thí dụ là ba xe, Nhà lửa và cùng tử. Chúng ta có căn lành thực
sự, ở thế giới Phật nào đó, vì ham vui mà chạy vô đây, hay hứng lên phát nguyện
sanh vô thế giới này, nhưng không gặp thầy khai ngộ sẽ mất kiếp luôn. Thật vậy,
Đức Đạt Lai Lạt ma cũng nói rằng kiếp này ngài sanh lại đây, nhờ gặp Phật pháp
và được thầy khai ngộ, nếu không thì mất kiếp.
Phật tử là
con Phật sanh lại đây, nên Phật cũng phải sanh lại để cứu độ, đó là 1.200
La-hán đã trồng căn lành với Phật. Tôi suy nghĩ tại sao Phật đến thôn Ưu Lầu Tần
Loa chỉ trong một đêm mà Phật độ được 1.000 người. Theo tôi, điều này thể hiện
ý nghĩa Tùng địa dũng xuất, hay cũng có nghĩa là chạy vào Nhà lửa.
Một đêm Phật
độ được 1.000 người, thì trong 80 năm trụ thế, Phật phải độ được nhiều người lắm,
nhưng về sau, chúng ta thấy đâu có như vậy. Về sau còn có đủ thứ Tỳ-kheo, thậm
chí có Tỳ-kheo mà Phật nói không nghe. Tôi nhớ câu chuyện Phật suốt ba năm ở ẩn
trong rừng, không thuyết pháp, vì các Tỳ-kheo đâu nghe Phật. Phật sống với con
khỉ già ngày ngày hái trái cây dâng Phật và một chú voi lấy nước uống cho Phật,
lịch sử đã ghi rõ như vậy.
Quán nhân
duyên để thấy tại sao trước kia, Phật độ được nhiều người một cách dễ dàng,
nhưng về sau không có ai được độ. Có thể khẳng định rằng tất cả những người đã
được Phật độ khi Ngài còn tại thế là họ đã có nhân duyên mật thiết với Phật,
nên Phật ra đời để dìu dắt họ ra khỏi Nhà lửa tam giới. Còn chúng ta ăn theo, sống
cách Phật quá xa, nhưng hết lòng thực tập pháp Phật cũng nhận được sự gia hộ của
Ngài, nên cảm thấy an lành trong Nhà lửa và cũng phát huy được phước đức, trí tuệ
của mình.
Nhưng căn bản,
các anh em nhớ giữ ba ngàn oai nghi, chắc chắn được Phật hộ niệm, Hộ pháp giữ
gìn và trí tuệ chúng ta khai mở theo thính giáo là đọc kinh văn tự và đọc kinh
không văn tự bằng Thiền.
Tôi được như
ngày nay nhờ thính giáo tham Thiền. Thính giáo đọc từng chữ trong kinh, nhưng
Thiền thì trí bừng sáng. Đọc kinh, chúng ta mới thấy được nhân duyên là thấy
pháp và thấy pháp là Như Lai.
Ý này qua
kinh Hoa nghiêm, thấy nhân duyên là thấy thực pháp, nghĩa là phải tu từ
ngũ ấm thế gian tiến lên chúng sanh thế gian và quốc độ. Rồi mới tiến lên con
người được xuất gia làm Tỳ-kheo quán nhân duyên chứng Bích chi Phật, hành Bồ-tát
đạo, cuối cùng chứng Như Lai thân, khi đó trí tuệ mới sanh, mới thấy pháp, nên
pháp biến thành Pháp thân. Bấy giờ, trí và pháp kết hợp thành Tỳ Lô Giá Na Pháp
thân.
Như vậy, Tỳ-kheo phải qua quá trình tu cho đủ
ba ngàn oai nghi, được Phật hộ niệm và Thiên long giữ gìn, từng bước thính giáo
tham Thiền, chứng Duyên giác thân và hành Bồ-tát đạo, quán nhân duyên thì đến
chỗ có duyên mới làm được. Đức Phật cũng vậy, Ngài tới làng nọ, dân chúng không
nghe, còn chọc phá. A Nan nói vua Tần Bà Sa La còn kính trọng Phật, đám tiện
dân này là gì. Phật nói họ không có duyên với Ngài, nên thanh thản bỏ đi.
Anh em nên nhớ
mình được người quý trọng, nhưng đến chỗ khác, coi chừng họ giết mình. Không phải
chỗ nào cũng làm đạo được. Người xưa nói đi sông đi biển không chết mà chết lỗ
chân trâu. Làm chuyện lớn được, nhưng việc nhỏ, bình thường không làm được, vì
không có nhân duyên.
Phải quán nhân duyên thấy rõ mới hành Bồ-tát đạo. Người
làm được, mình bắt chước là chuốc lấy tai họa. Các thầy hoằng pháp nên nhớ ý
này. Riêng tôi thuở còn là Sa-di, không thấy nhân duyên, lại háo thắng. Khi người
ta đến Hòa thượng Thiện Hoa thỉnh giảng sư đi thuyết pháp ở Bà Rá. Các thầy lớn
tuổi ngại vùng chiến tranh, sợ nguy hiểm, lấy cớ tuổi già, không đi. Hòa thượng
hỏi tôi muốn đi không. Tôi đi liền, vì trẻ thì điếc không sợ súng, lên vùng đó
chết chắc, nhưng may mắn không chết! Đó là một số kinh nghiệm hành đạo xin chia
sẻ với anh em.