GN - Đến mùa Vu lan Báo hiếu của Phật tử xuất gia và tại gia, tôi nhắc
một số việc rất quan trọng trong đời sống tu hành của chúng ta.
Trước đây, một
số người phạm sai lầm khi tu pháp môn mình ưa thích thì thường chê pháp môn
khác. Nếu tu theo Phật giáo Nguyên thủy thì chê pháp tu Đại thừa, đó chính là
bài học đắt giá mà Phật giáo Ấn Độ đã trải qua.
Thật vậy, sau
khi Phật Niết-bàn, chư Tăng thuộc phái bảo thủ cố chấp lời dạy nào của Phật
theo kinh điển truyền thừa, mà người tu pháp khác, thì họ không chấp nhận. Ban
đầu, tìm cách nói xấu, gây chia rẽ trong Phật giáo, dẫn đến Phật giáo chống phá
nhau, đó là thời kỳ Phật giáo phát triển.

Cầu nguyện
tất cả hương linh nhờ pháp lực được siêu thoát - Ảnh minh họa
Trong Phật
giáo lúc bấy giờ có sự phân chia đầu tiên thành hai phái chính là phái bảo thủ
và phái cấp tiến. Từ đó, rơi vào tình trạng bè phái. Trong khi luật Phật đã cấm
việc bè phái, vì Phật giáo thống nhất một khối, lấy lý tưởng giải thoát làm lẽ
sống. Vì vậy, chúng ta phải chia sẻ giáo pháp cho thích hợp với xã hội mà chúng
ta đang sống, thích hợp với nhu cầu quần chúng, thì Phật giáo mới tồn tại được.
Tinh thần Phật giáo phát triển, hay cấp tiến chủ trương như vậy.
Phái bảo thủ
thường chê kinh điển Đại thừa, chê người theo Đại thừa không thể hiện đúng lời
Phật dạy. Nhưng thực sự, Phật giáo Đại thừa căn cứ trên tinh thần Phật dạy rằng
chúng sanh nghĩ gì, muốn gì, làm được gì, thì chúng ta nên đáp ứng nguyện vọng
chính đáng của họ. Chúng ta cho họ những gì họ cần, nếu cho cái chúng ta có mà
họ không cần, trở thành phản tác dụng. Phật tử tại gia cần gì, giới xuất gia
đáp ứng được nhu cầu đó, nếu không, họ sẽ bỏ đạo Phật.
Người theo
phái bảo thủ chê trách việc làm của người tu phái cấp tiến là không đúng, không
được, nhưng thực tế cho thấy việc không được lại được. Thật vậy, người theo
tinh thần cấp tiến Đại thừa nhận thấy Đức Phật đã quy tụ tất cả những người có
tâm xuất gia, có tâm cầu giải thoát, có tâm muốn cứu độ chúng sanh. Bằng chứng
cụ thể khi Phật thành đạo, đầu tiên Ngài giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như là
những nhà tu khổ hạnh, nhưng họ có nhu cầu giải thoát thực sự, là nhu cầu chính
đáng, nhưng họ không tìm được. Đức Phật mới nói Tứ Thánh đế cho họ mà đối tượng
là Sa-môn cầu giải thoát và Ngài sử dụng pháp đơn giản, nhưng họ đã đắc quả vị
La-hán một cách nhanh chóng. Đó là quan điểm nhìn cuộc đời đúng đắn mới thấy điều
nên giữ, hay nên bỏ.
Những gì nên
bỏ mà cố giữ sẽ làm mọi người khổ. Vì vậy, Phật thuyết nguyên nhân khổ và việc
mà các người tu cần làm là tu 37 Trợ đạo phẩm để thoát khổ, được Niết-bàn. Hàng
đệ tử Phật dù tu pháp môn nào cũng phải tuân thủ giáo lý căn bản này, không được
rời giải thoát. Đây là mẫu số chung, nhưng giáo hóa chúng sanh phải dùng pháp
phương tiện.
Thật vậy, khi
Đức Phật thành đạo ở cội bồ-đề, Ngài cũng nghĩ không thể chia sẻ pháp mà Ngài
chứng ngộ là Tam minh, Lục thông, Thập bát bất cộng…, vì mọi người chưa thể làm
những việc này, nên Phật không nói. Phật bảo những gì mình biết thì mình làm,
còn người chưa làm được thì không nên dạy họ những điều đó. Ý này được kinh
Nguyên thủy đưa ra thí dụ người bị mũi tên độc phải lo nhổ mũi tên độc ra và cứu
chữa vết thương cho lành, mới nói đến việc khác. Lúc đó mà nói chân lý thì họ
chưa kịp hiểu đã mất mạng.
Ngày nay, có
người bài bác lễ Vu lan vào ngày rằm tháng 7 mà Phật giáo Đại thừa thường tổ chức.
Họ nói rằng lễ này không có trong Phật giáo. Đó là sai lầm lớn của một số người
không hiểu rõ tinh thần Phật dạy có thể làm Phật giáo bị suy yếu cho đến bị
tiêu diệt.
Thử nghĩ lễ
Vu lan có hay không có trong Phật giáo. Tôi nghiên cứu kinh Nguyên thủy trước
và học kinh Đại thừa sau, nhận thấy có sự nhất quán từ pháp Phật dạy năm anh em
Kiều Trần Như và đi suốt nữa, xem Phật dạy Tỳ-kheo làm gì và những người đang sống
làm gì. Bấy giờ, tôi thấy trong kinh Nguyên thủy, Phật đã nói hiếu hạnh và Ngài
cũng đã thực hành hiếu hạnh. Nhưng hiếu hạnh của Phật khác với hiếu hạnh của
Bà-la-môn giáo, khác với Nho giáo.
Đạo Bà-la-môn
chủ trương cúng tế, Phật không đồng tình việc này, thậm chí họ giết bò, heo, dê
để cúng tế thần linh, cúng ông bà tổ tiên để cầu mong được phước. Tục lệ này có
từ thời Phật tại thế cho đến ngày nay vẫn còn. Gần nhất là ở vườn Lâm Tỳ Ni,
nơi Phật đản sanh ở Nepal. Dù Ấn Độ đã cấm giết súc vật để cúng tế, nhưng người
dân Ấn vẫn theo tục lệ cúng ông bà bằng cách chém giết súc vật. Ở Việt Nam có lễ
đâm trâu rất dã man.
Phật dạy rằng
muốn sanh lên cõi Trời, phải có thiện căn công đức. Làm ác nghiệp phải đọa. Giết
súc vật cúng ông bà, chỉ thấy hàng xóm ăn, ông bà không ăn nhưng phải gánh tội
sát hại này. Gia đình tôi đã phạm tội này khi ông nội tôi qua đời, bố tôi theo
đạo Phật được Hòa thượng dạy cấm sát sanh, phải cúng chay, vì người chết không
ăn như người sống. Tôi nhớ đám tang này kéo dài một tuần lễ. Khi còn một ngày
đưa đi chôn, em của ông nội tôi là bà Bảy về thăm. Bà bảo giết bò để cúng, vì
anh của bà bị bỏ đói, bắt ăn toàn rau. Nói xong, bà lấy miếng thịt to để trước
quan tài, khấn vong hồn anh linh thiêng thì nhận phẩm vật của em. Bà nói vừa
xong, tự nhiên quan tài xì khói có mùi hôi khó chịu, dưới quan tài phụt nước
ra. Bố tôi vô lạy, xin ông nội tha tội cho bà thì nước từ quan tài hết xì ra.
Đó là sự thật xảy ra trong gia đình tôi, từ đó, gia đình tôi cúng chay cho ông
bà. Còn trước kia, cứ mùng 3 Tết là cúng đủ thứ, cắt cổ gà rồi luộc, đem cúng.
Nhưng hiện tượng này xảy ra thì sợ, không cúng súc vật nữa.
Phật dạy báo
hiếu cha mẹ lúc cha mẹ còn sanh tiền, thể hiện lòng hiếu kính bằng cách không
làm cha mẹ buồn phiền. Phật tử phải hiểu điều này. Nhiều khi chúng ta cung phụng
đầy đủ, nhưng không khéo làm cho cha mẹ buồn phiền, vì cách đối xử, cách cung
phụng của chúng ta khiến cha mẹ buồn thì phước không sanh, mà tội sanh. Người
ta nói ăn cơm chan nước mắt là ý này, vì một lời nói không khéo làm người già dễ
buồn, dễ giận.
Tôi nhớ có lần
ông thân sinh tôi về thăm người chị của tôi có chồng ở xa. Tới nhà, bà chị này
lo nấu cơm cho ông cụ ăn, nhưng chị bận công việc, nên đứa con đem nồi cơm để
trên bàn, không đem chén đũa, không đem thức ăn. Ông cụ tự bốc cơm ăn. Bà chị hỏi
con sao không đem thức ăn cho ông ngoại. Ông cụ nói cha ăn rồi. Như vậy là bà
chị đã làm buồn phiền cha. Chị xuống thăm tôi, tôi nói chị phạm tội bất hiếu,
phải lạy ông xin tha tội. Vì vô tình, hay cố ý làm cha mẹ buồn phiền, hay làm
buồn phiền người quá vãng là tội bất hiếu nặng.
Đức Phật bảo
chúng ta dạy Phật pháp cho ông bà, tổ tiên là quan trọng nhất, vì chỉ cho cha mẹ
ăn đầy đủ, nhưng họ chết rồi, làm sao ăn. Đem Phật pháp hướng dẫn cha mẹ, ông
bà chúng ta tin và thực hành Phật pháp để họ được giải thoát là trả hiếu lớn nhất.
Điển hình như khi Phật về lại hoàng cung, Ngài thuyết pháp, giáo hóa vua Tịnh
Phạn, giúp ông chứng được quả Tu-đà-hoàn, có huệ nhãn thấy được tội lỗi trước
kia của ông, nên không dám khởi tâm ham muốn việc không tốt, mới được giải
thoát.
Vua Tịnh Phạn
thấy Phật được ông vua các nước lân cận kính trọng và ông cũng thấy các vị
Thánh Tăng theo Phật được hàng Bà-la-môn kính nể, khiến ông khởi ý niệm Thái tử
Sĩ Đạt Ta là người cao quý độc nhất trên thế gian thì từ đó, vua Tịnh Phạn mới
tỏ lòng kính trọng Phật thực sự. Vua Tịnh Phạn đã nói đơn giản rằng nếu thái tử
nối ngôi vua thì cũng giống như bao người khác, nhưng vì có trí tuệ, bỏ ngôi
vua đi tu mới trở thành Phật là vị tối thượng trên tất cả mọi người. Nhận thức
được tư cách thánh thiện bậc nhất của Phật, vua mới phát tâm cung kính và nói:
“Bạch Đức Thế Tôn…”. Vì vậy, ngày nay chúng ta có truyền thống con đi tu, cha mẹ
cũng tôn trọng.
Vua nói với
Phật rằng lần đầu tiên ông đảnh lễ Ngài là khi Tiên A Tư Đà đảnh lễ Ngài, lúc
đó thái tử còn nằm nôi. Vị Tiên nhân này sống đến 120 tuổi, nhưng thấy thái tử
thì sụp lạy và khóc, đó là sự thật lịch sử. Không biết có sức thu hút nào khiến
vua Tịnh Phạn cũng lạy theo, vì vua kính trọng lão Tiên này nhất, nên Tiên làm
gì thì vua dễ làm theo. Và lần thứ hai, vua lạy thái tử, vì thấy Ngài ngồi ở gốc
cây mà mặt trời không ngả bóng về Tây, tức trời vẫn sáng như ban ngày. Đến khi
thái tử xả định thì chiều sụp tối.
Vì vậy, đối với
chúng ta, cảm hóa được tổ tiên, ông bà, cha mẹ là điều quan trọng nhất. Đôi khi
chúng ta báo hiếu lại thành bất hiếu. Tôi luôn cân nhắc ý này trong cuộc đời
hành đạo của mình. Chúng ta đi chùa lễ Phật, ông bà cha mẹ cũng đi theo ta và cả
những người thù nghịch cũng theo ta. Nói cách khác, chúng ta có hai mặt tốt xấu,
thù nghịch và thương yêu. Ai cũng có người ghét, nhưng không ai không có người
thương mình. Không có người thương là vào địa ngục. Có người ghét, người
thương, nhưng khác nhau ở nhiều người thương, hay nhiều người ghét. Và trong thế
giới vô hình cũng có người thương, người ghét chờ mình sơ hở để chống phá, gọi
là oan gia.
Thí dụ Ngộ Đạt
đời trước làm quan đã giết oan Triệu Thố, nhưng sau ngài từ quan, đi tu đến 9
kiếp, nhưng ông Triệu Thố luôn theo ông Viên Án (tức Ngộ Đạt) nhiều kiếp trước
đã từng giết oan ông để báo thù. Nhưng đã theo 9 kiếp mà không có cơ hội trả
thù. Đến đời Đường, Ngộ Đạt làm Quốc sư được vua kính trọng đến mức làm pháp
tòa toàn bằng trầm hương cho ngài ngồi thuyết pháp. Ngài mới nghĩ mình là nhất.
Chỉ khởi một ý niệm như vậy liền bị tổn phước thì Triệu Thố mới có điều kiện
báo thù.
Còn đối với
chúng ta, như đã nói có những người thiện theo ủng hộ gọi là đất nước, ông bà,
Trời Phật, tổ tiên, vì ta kế thừa họ. Ta muốn cứu nhân độ thế, nên người có tấm
lòng giống ta, họ sẽ ủng hộ ta. Thực tế có người cho biết họ nằm mộng thấy báo
trước việc nguy hại sẽ xảy đến, nhờ đó mà họ thoát chết. Điều này đúng.
Ngoài ra, còn
có người luôn tìm sơ hở của mình để hại. Chúng ta đưa họ về chùa để hóa giải mối
oan trái này. Vì vậy, ta tới chùa, họ cũng tới chùa, nếu chúng ta gặp vị chân
tu mà ta kính trọng thì thế lực vô hình đi theo ta cũng kính trọng theo.
Người thực
tu, đắc Thánh quả. Người phàm nói sư nào cũng giống nhau, nhưng theo tôi, các
sư không giống nhau. Thật vậy, đời nhà Minh, muốn cầu siêu cho mẹ, vua tổ chức
trai tăng. Người ta nghĩ vua cúng thì chắc được ăn ngon, có y bát tốt, có tiền
nhiều và có cả danh dự. Nghĩ như vậy là phàm tăng, hay nghiệp chướng tăng.
Nghe vua cúng
trai tăng, họ mua ca-sa, cạo tóc, vô chứng trai. Điều này rất nguy hiểm. Nếu
chúng ta mời ông bà tới cúng, mà mắt của họ là thánh thần, nên họ thấy được tâm
của các ông tu hành này còn muốn ăn ngon, hưởng thụ, khiến họ xem thường.
Phật dạy chứng
trai, tâm phải thanh tịnh, chỉ trụ Chánh định và hồi hướng phước báo đến những
người quá vãng. Người thực tu ngồi chứng trai khác với người giả tu. Người giả
tu thì nhìn coi có thức ăn gì ngon.
Trong lễ trai
tăng cúng dường, Phật dạy người tín thí và người tu, cả hai đều phải thanh tịnh.
Không nghĩ đến thức ăn, nhưng nghĩ hồi hướng phước báo cho những hương linh là
điều quan trọng. Phật dạy rằng nếu chư Tăng nghĩ đến thức ăn là đọa và hương
linh không siêu thoát.
Các sư được
vua nhà Minh mời đến chứng trai đi nghinh ngang. Ông vua này chơi khăm. Ông cho
chôn tượng Phật ở trước cửa hoàng cung. Các sư đi qua bình thường, nghĩ hoàng
cung có đường sá, bông trái đẹp quá, cứ đi mà ngắm. Nhưng có một ông sư quỳ xuống
lạy. Lính canh nói lại với vua rằng có một nhà sư không vô chứng trai mà lo quỳ
lạy ngoài đường. Vì ông này có thần thông thấy tượng Phật và thấy cả người chết.
Vua cúng dường
các sư kia xong, cho về. Vua mới rước Hòa thượng quỳ lạy ngoài đường đến kim
quan bà hoàng thái hậu. Ông tụng kinh và nói chuyện bình thường rằng ông định
không tới lễ trai tăng, nhưng nghĩ bà hoàng thái hậu này có lòng thành, có tín
tâm nghĩ về Phật nên ông mới tới đây. Vậy bà mãn nguyện rồi, về Trời đi. Và tối
hôm đó, vua nằm mộng thấy hoàng hậu nói rằng Thánh Tăng đã đưa bà về Trời, vua
nên lễ tạ Thánh Tăng.
Vị Thánh Tăng
này thấy tháp chín tầng làm cho hoàng hậu, ông cứ đứng nhìn. Vua nói ngài thích
thì sẽ tháo dỡ, đem tháp về chùa của ngài. Ông nói không cần cực khổ và ông lấy
tháp để vô tay áo.
Pháp sư Quảng
Tâm, Đài Loan kể tôi nghe câu chuyện vua nhà Minh cúng một ngàn vị Tăng để may
ra có một Thánh Tăng cũng tốt.
Chúng ta cúng
dường mùa Vu lan, nếu có một vị sư mà ông bà, cha mẹ chúng ta kính trọng là họ
siêu thoát. Thật vậy, trong kinh Vu lan, Phật dạy rằng:
“Trước khi thọ
thực đàn chay
Phải cầu chú
nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế
mẹ cha thí chủ
Định tâm thần
quán đủ đừng quên
Cho xong ý định
hành thiền
Mới dùng phẩm
vật đàn tiền hiến dâng…”.
Nghĩa là vị
Tăng hành thiền, hướng về hương linh để siêu độ họ, như trong câu chuyện nói
trên, vị Thánh Tăng thấy vong linh bà hoàng hậu, mới độ siêu thoát. Vì bà nương
theo thần lực, huệ lực của vị Tăng này mới đi lên. Nếu không, người chết thấy tối
đen thì dễ đi vào ba đường ác. Người tu thiền quán đắc định, thấy được con đường
đi lên, hoặc thấy Phật, Bồ-tát rước họ, tức nương theo thần lực của chư Phật và
pháp lực mà ra khỏi sinh tử.
Có thể khẳng
định rằng lễ cúng dường trai tăng theo Phật giáo Đại thừa đã phát xuất từ kinh
Nguyên thủy và thể hiện trên nhân gian cũng được nhiều người chấp nhận, mới tồn
tại.
Muốn có Phật
lực, Pháp lực, đòi hỏi chư Tăng thanh tịnh, nên kinh nói rằng Phật đến sông Hằng
thấy lũ quỷ khát nước, nhưng vì nghiệp của quỷ khiến nó thấy nước là lửa, nên
xin Phật cho nước uống. Phật chỉ vào dòng sông và nương theo thần lực của Phật,
nó thấy lửa đã biến thành nước. Phật lực là thế và Pháp lực là lời Phật dạy,
hay kinh điển, nhưng phải nhờ sự hành trì của chư Tăng, kinh mới phát huy được.
Vì kinh để trong tủ không thể phát huy sức mạnh, nhưng chư Tăng sử dụng kinh để
tu hành thì phát huy đạo lực và sanh ra pháp lực.
Ngày nay, Phật
đã vào Niết-bàn, chúng ta chỉ còn Pháp lực và Tăng lực, tức còn kinh của Phật
và chư Tăng thọ trì kinh điển, tạo thành sức mạnh tâm linh, mới dùng sức mạnh
tâm linh này để siêu độ người chết, hoặc an tâm cho người sống.
Chúng ta chọn
ngày rằm tháng 7 để cúng dường chư Tăng, nhờ chư Tăng siêu độ cho tổ tiên, ông
bà, cha mẹ, người thân đã quá vãng. Vì trong ba tháng an cư kiết hạ, chư Tăng
hành trì pháp Phật, tạo thành thần lực của chư Tăng, nên sự cầu nguyện có linh
nghiệm. Như vậy, vị sư nào chuyển biến được sức mạnh của kinh, của pháp Phật
thì giọng tụng kinh của họ tác động người quá vãng nghe và cảm nhận được lời Phật
dạy, khiến họ hết khổ đau, được giải thoát.
Hôm nay là ngày Tự tứ, quý vị đủ duyên tham dự. Tôi mong mọi người giữ
tâm thanh tịnh, đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác, chỉ giữ lòng thành của mình mong
nhờ thần lực của chư Tăng để siêu độ được vong linh của người thân. Cầu nguyện
tất cả hương linh nhờ pháp lực được siêu thoát.