GN - Mẹ hiền Quán Thế Âm là vị Bồ-tát có hạnh nguyện đại từ, đại bi,
thương yêu tất cả chúng sinh muôn loài như người mẹ thương yêu đứa con duy nhất
của mình. Ngài luôn quán sát, lắng nghe âm thanh kêu cứu, cầu nguyện của chúng
sinh từ những nơi đau khổ để kịp thời ứng hiện cứu giúp.

Bồ-tát Quán Thế Âm
Theo kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn, Bồ-tát Quán Thế Âm có 33 ứng
hóa thân, từ thân Phật, Độc giác, Bồ-tát… đến thân đồng nam, đồng nữ; ứng hiện
bất cứ thân hình, thân phận nào mà cứu độ được chúng sinh, khai mở được con mắt
pháp cho chúng sinh, phát khởi tâm Bồ-đề cho chúng sinh, hay đơn giản là làm
cho chúng sinh bớt lo, bớt khổ, bớt buồn… là Ngài đều ứng hiện thân ấy. Ngài thường
vận dụng 14 năng lực vô úy để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, ách nạn,
hoặc đáp ứng những yêu cầu chính đáng khi chúng sinh tha thiết hành trì tu tập
theo pháp môn trì niệm danh hiệu Ngài, cho nên Bồ-tát Quán Thế Âm còn được biết
đến với danh hiệu Thí Vô Úy: Vị Bồ-tát cho chúng sinh sự không sợ hãi!
Thí vô úy, cho sự không sợ hãi, cho cái không
sợ hãi, nghĩa là ai gần gũi, ai tiếp xúc, ai nghe đến tên của Bồ-tát đều cảm thấy
bình an, an ổn, không còn lo sợ gì nữa. Nói cách khác, Bồ-tát bằng mọi phương
tiện, pháp môn tu tập để lấy đi sợ hãi trong tâm của của chúng sinh. Để thực
hành hạnh nguyện đó, Bồ-tát Quán Thế Âm thường sử dụng sức mạnh vi diệu của Kim
cang tam-muội vô tác, tức là vận dụng sức mạnh tự nhiên, không cần tác ý (bất
tác ý chi lực dụng), cùng với một thứ tình yêu duy nhất đối với hết thảy chúng
sinh trong mười phương, ba đời, sáu nẻo… khiến cho hết thảy chúng sinh đều
thành tựu, đạt được 14 công đức vô úy. Mười bốn đức vô úy này, Tam tạng pháp
số giải thích như sau:
1. Thực
tập theo hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm, biết lắng tai nghe là để dừng lại, không
chạy theo thanh trần, không rong ruổi tìm kiếm hạnh phúc hư ảo bên ngoài, không
để cho cái thấy biết của mình bị cảnh vật, thanh âm tác động, để phản quan tự kỷ,
quay lại soi xét tự tính của mình. Không thấy nghe bên ngoài thì không vọng tưởng;
quay lại soi xét tự tính thì mọi thứ sẽ trở nên chân thực, vắng lặng, mọi khổ
não sẽ không trở lại. Cho nên, nếu chúng sinh đang bị khổ đau mà thực lòng thực
tập theo phương pháp quán chiếu này thì chắc chắn sẽ được giải thoát. Đây là vô
úy thứ nhất, “quán kỳ âm thanh, tức đắc giải thoát”.
2. Cái
biết là từ nơi tâm; cái thấy là từ nơi mắt. Tri kiến hay thấy biết của chúng
sinh thường sai lầm, vì thường thấy biết bằng bản ngã, suy luận theo tập khí,
mà thực tướng của các pháp là vô ngã. Cho nên Bồ-tát Quán Thế Âm tìm đủ phương
tiện xoay chuyển cái thấy biết của chúng sinh luôn hướng về chân không. Chân
không là vô ngã. Đã vô ngã rồi thì có vào lửa lớn cũng không bị cháy được. Lửa đó
chính là ngọn lửa tri kiến sai lầm, lửa dục vọng, lửa tham muốn. Đây là vô úy
thứ hai, không còn lo sợ ngọn lửa tham dục đốt cháy, “thiết nhập đại hỏa, hỏa bất
năng thiêu”.
3. Tai
luôn thích nghe những lời mật đường, dua nịnh, bởi vì thế mà biết bao chúng
sinh bị cuốn trôi vào dòng sông sinh tử vô tận chỉ bởi ‘ưa nghe’ lời ngon ngọt.
Bồ-tát Quán Thế Âm bằng mọi phương tiện giúp chúng sinh xoay chuyển cái tính ‘ưa
nghe’ lời nói bên ngoài, ưa nắm bắt âm thanh bên ngoài, trở lại quán chiếu bên
trong, trở về với chân không vô ngã để không bị cuốn trôi hay nhấn chìm trong bể
ái. Đây là vô úy thứ ba, “thủy bất năng phiêu”.
4. Do điên
đảo vọng tưởng mà khởi tâm sát hại chúng sinh. Do đó, đoạn diệt vọng tưởng thì
tâm sát hại không còn. Bồ-tát Quán Thế Âm đã chứng ngộ thật tính, đoạn diệt hết
vọng tưởng, phát khởi tâm từ bi rộng lớn, tuyệt đối không còn ý niệm sát hại.
Chúng sinh tu tập theo hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm cũng thế, nếu ý niệm sát hại
không còn thì giả sử có vào cõi nước của quỷ dữ La-sát, quỷ không hại được. Đây
là vô úy thứ tư, “nhập chư quỷ quốc, quỷ bất năng hại”.
5. Thực
tập hạnh lắng nghe, lúc đầu chỉ dùng tai mà nghe âm thanh, nhưng sau đó cả sáu
căn đều có thể lắng nghe được hết. Nghe rồi suy ngẫm sẽ thấy không gì có thể nắm
bắt được, như âm thanh gió thổi chuông ngân làm sao nắm bắt, ấy gọi là thật sự
lắng nghe. Khi chúng sinh mê muội thì sáu căn đều có thể hại người, không khác
gì binh đao. Người đời chẳng đã nói ‘miệng lưỡi như gươm dao’ đó sao! Bồ-tát tu
tập, sáu căn đã diệt, đã trở thành chân không, hết thảy mọi thứ trần cảnh đều
giống nghe các thứ âm thanh, không thể nắm bắt, nên có thể cứu giúp chúng sinh
thoát khỏi nạn bị gươm đao gia hại. Đó là đức vô úy thứ năm, “lâm đương bị hại,
đao đoạn đoạn hoại”.
6. Lắng
nghe lâu ngày, cũng giống như theo dõi hơi thở hay niệm Phật lâu ngày, ắt sẽ có
định. Có định thì tuệ sẽ phát sinh. Một khi tuệ giác đã phát sinh, chiếu sáng mười
phương, soi khắp pháp giới, tối tăm u ám tất tự tiêu diệt. Chúng sinh sở dĩ bị
ma quỷ, Dạ-xoa bức hại do bởi vô minh, mê tín; nay tu tập phát tuệ, cho dù quỷ
Dạ-xoa có tới gần chúng cũng không dám nhìn, nói chi đến gia hại. Đây là đức vô
úy thứ sáu, “chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn thị chi, huống phục gia hại”.
7. Chúng
sinh bị thanh sắc hư vọng trói buộc còn bền chặt hơn xiềng xích, gông cùm. Bồ-tát
tu tập đã diệt hết cả hai tính động và tĩnh, cho nên có thể quán chiếu và chuyển
hóa những âm thanh hư vọng đưa về chánh chân, nhờ vậy thoát khỏi mọi trói buộc
của thanh sắc giả dối. Chúng sinh nhờ thực tập theo phương pháp này mà không bị
thanh sắc trói buộc thân tâm, đây là đức vô úy thứ bảy, “cấm hệ già tỏa, sở bất
năng trước”.
8. Thực
tập hạnh lắng nghe không những thoát được sự trói buộc của thanh sắc hư vọng mà
còn làm cho lòng từ bi ngày lớn mạnh. Lòng từ ban rải rộng khắp khiến cho ai nấy
gặp được đều vui, thấy được đều mừng, cho nên dù có đi qua đường hiểm, gặp quân
giặc cướp cũng không có gì lo sợ. Đây là đức vô úy thứ tám, “kinh quá hiểm lộ,
tặc bất năng kiếp”.
9. Huân
tập hạnh lắng nghe lâu ngày thành tánh, tức là từ văn tuệ thành tư tuệ, sẽ lìa
xa mọi vọng tưởng dục trần, khiến cho sắc trần không lay động. Pháp môn này có
thể giúp cho người có nhiều tâm tham đắm nhục dục không còn tham dục. Đó là đức
vô úy thứ chín, “đa ư dâm dục, tiện đắc ly dục”.
10. Tánh
nghe một khi đã thuần tịnh, xa lìa mọi vọng trần thì căn cảnh tương nhập, viên
dung vô ngại, đó là lúc tâm sân hận bị tiêu diệt. Đây là đức vô úy thứ mười, “nhược
đa sân nhuế, tiện đắc ly sân”.
11. Thực
hành hạnh lắng nghe có thể diệt trừ mọi si ám, đưa tâm trở lại tánh minh, nên
có thể khiến cho người tâm trí ám độn, bất thiện trở nên thông minh sáng suốt. Đó
là sự không sợ hãi thứ mười một, “nhược đa ngu si, tiện đắc ly si”.
12. Dung
hình phục văn. Dung hình tức là đã diệt trừ hết sự chướng ngại của hình tướng.
Phục văn là trở lại tánh chơn. Từ đó, người tu đi vào cuộc đời mà không làm hỏng
pháp thế gian, có thể đi khắp mười phương,
cúng dường vô số chư Phật nhiều như cát bụi, thừa tự gia tài pháp bảo,
khiến cho chúng sinh đều thành pháp tử. Đã là pháp tử, tức là đứa con chân thật
của Như Lai thì còn gì sợ hãi? Lấy sự không sợ hãi này mà bố thí cho hết thảy
chúng sinh không có con trai, thì chúng sinh cầu con trai được con trai vậy!
13. Lục căn
viên thông, minh chiếu vô nhị. Lục căn của Bồ-tát đã viên dung, thông đạt vô ngại,
bao trùm pháp giới, giống như tấm gương lớn, phản chiếu và sáng soi cùng lúc,
do đó mà có thể tùy thuận pháp môn, thọ lãnh không sót, nên không còn sợ hãi. Lấy
sự không sợ hãi này mà bố thí cho chúng sinh không có con gái, thì chúng sinh cầu
con gái được con gái vậy!
14. Hiệu
Viên Thông. Danh hiệu của Bồ-tát Quán Âm cũng là danh hiệu của chư Bồ-tát trong
mười phương, vì Ngài đã chứng đắc quả vị chân thật viên thông, cho nên có thể
làm nơi nương tựa cho chúng sinh cầu phước. Chỉ cần niệm danh hiệu của Bồ-tát
Quán Thế Âm là niệm danh hiệu của hằng hà sa số chư Bồ-tát trong mười phương,
có hằng hà sa số chư Bồ-tát cùng linh cảm, nên không còn gì sợ hãi.
Như vậy, Bồ-tát Quán Thế Âm đã vận dụng năng lực tam-muội Kim cương vô
tác và lòng từ bi rộng lớn để hóa độ, cứu giúp chúng sinh, ban cho chúng sinh
pháp môn phương tiện quán và niệm danh hiệu Ngài, hay quán và nghe âm thanh, thực
hành hạnh lắng nghe để thoát khỏi sự sợ hãi. Rõ ràng, những ai đã từng trì niệm
danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, những ai dù chỉ một lần tập hạnh lắng nghe khi đối
diện với khó khăn, khổ não, bức bách, dồn nén… sẽ cảm nhận rõ ràng nhất những đức
tính vô uý vừa nêu trên. Thật đúng như lời nguyện của Bồ-tát Quán Âm khi xưa: “Nguyện
khi con hành Bồ-tát đạo, nếu có chúng sinh nào bị các khổ não, sợ hãi… có nguy
cơ thối thất Chánh pháp, đọa vào đường dữ, ưu sầu, một mình côi cút, không người
cứu hộ, không áo, không nhà, bần cùng cơ cực… nếu chúng sinh ấy có thể nhớ nghĩ
đến con, niệm danh hiệu của con, vì chúng sinh ấy biết thiên nhĩ của con có thể
nghe thấy, thiên nhãn của con có thể nhìn thấy, thì nếu chúng sinh ấy không
thoát khỏi những khổ đau, ách nạn, con thề trọn không thành tựu Phật quả” (kinh
Bi hoa).