GN - Đi khắp cùng thế giới bao la này, chỗ nào mà không có cỏ. Cái giống
không trồng mà mọc này dễ sống làm sao! Cỏ mọc nơi ruộng đồng, bưng trảng quạnh
hiu, cỏ mọc nơi vệ đường, mái nhà quen thuộc, cỏ mọc trên đồi núi cao xa trọng
vọng, cỏ mọc nơi lòng đại dương sâu thẳm mênh mông…
Cỏ mọc trên đất đã đành mà ngay
trên gạch đá hay trong nước nó vẫn tươi tốt xanh mơn... Nhưng dù mọc ở đâu, cao
hay thấp, tốt hay xấu… thì cỏ cũng chỉ là phận dưới chân người và cỏ cũng chỉ
là cỏ mà thôi…
Trước mặt các
quan, xưa người dân đen thường xưng mình là “thảo dân” tức là phận thấp hèn,
còn bề trên thuộc dạng “phụ mẫu chi dân”. Thảo dân thì quanh năm với ruộng đồng,
thuế má, mất mùa, cỏ rác luôn là nỗi ám ảnh. Lúa chăm sóc đổ mồ hôi sôi nước mắt
vậy mà vẫn cứ èo uột, còn cỏ thì chẳng ai trồng, chẳng ai tưới nước bón phân mà
cứ tươi tốt vô tư. Quan là bậc cha mẹ lo cho dân mà dân cứ nghèo cứ đói, cứ bị
bóc lột hành hạ… lỗi này biết đổ cho ai? Đành đổ hết cho ông Trời vậy!
Chuyện kể rằng:
xưa, Ngọc hoàng Thượng đế tạo ra loài người, muốn cho loài người no đủ nên mới
sai một vị thần xuống trần gian gieo hai bao hạt lúa để cho người và một bao hạt
cỏ cho súc vật. Nhưng vị thần này thất trách, xuống tới trần gian thấy cái gì
cũng đẹp cũng mê nên sinh ra lú lẫn, quên mất lời dặn của Ngọc hoàng. Ông gieo
tới hai bao hạt cỏ mà chỉ có một bao hạt lúa. Khi về đến Thiên đình, nhận ra việc
làm sai trái thì cỏ đã tràn lan dưới cõi trần rồi. Ngọc hoàng tức giận đày ông
ta xuống trần gian làm kiếp con trâu, ăn khi nào hết cỏ thì về trời phục mệnh…
Ngày nay ở một số đền chùa cổ còn thờ vị thần mình người đầu trâu là vậy!
Đó là chuyện
xưa tích cũ, ai tin cũng được mà cho là nhảm nhí cũng không sao, vì đó là trí
tưởng tượng của dân gian mà. Ấy vậy, trâu không những quanh năm, cả đời nhai cỏ
mà còn giúp người dân cày bừa cực khổ. Người nông dân xưa nay vốn nặng lòng
tình nghĩa, thương trâu như thương mình “cấy cày vốn nghiệp nông gia / ta
đây trâu đấy ai mà quản công / bao giờ cây lúa còn bông / thời còn ngọn cỏ
ngoài đồng trâu ăn”. Có thể nói phận cỏ luôn đi kèm với kiếp trâu cũng là
duyên phận…
Nói là nói vậy,
chứ đừng bao giờ nghĩ cỏ là thứ vô tích sự. Cỏ ăn được thì cỏ lập tức thay đổi
ngay danh phận, người ta gọi cỏ là rau. Rau đắng mọc sau hè ăn với cháo cá lóc
đồng, một bát cháo mà thương mà nhớ cái thời “ba vá miểng vùa, đường mòn xưa
dãi nắng dầm mưa” biết bao nhiêu. Ai đi xa ăn được bát canh chua nấu với
bông cỏ điên điển thử hỏi làm sao tránh khỏi giây phút chạnh lòng “nghiêng mình
nhớ đất quê” nhớ về quê cha đất tổ!
Con người sống
phải có tâm có can, như cây cỏ cũng phải có lòng có dạ. Chuyện xưa Tỷ Can là đệ
nhất trung thần, sau khi moi tim mình dâng cho vua Trụ, trên đường về nhớ lời
sư phụ dặn trước khi xuống núi gặp bất kỳ trường hợp gì thì cũng đừng bao giờ mở
miệng nói chuyện với ai! Vì con người không có trái tim thì sống với ai được nữa
mà nói? Hồ Ly biết vậy nên mới chặn đường hỏi ông mua “vô tâm thái” hay không?
Vô tâm thái tức là giống rau muống rỗng ruột. Tỷ Can tức giận mở miệng hỏi đó
là thứ gì, thì liền hộc máu té nhào xuống ngựa. Chuyện cũ nhớ lại vẫn thấy hay,
cái giống người mà không có “trái tim”, không biết yêu thương thì luôn đi tìm
cách hãm hại người khác, nhất là những bậc trung lương xưa nay luôn bị phải cảnh
này…
Còn cỏ mà cứu
được người thì phong lên một bậc nữa là “dược thảo” tức là cỏ làm thuốc. Đa phần
thuốc men hiện nay trị bệnh cho con người là chế biến từ cây cỏ mà ra chứ ở
đâu. Nhưng cũng có nhiều trường hợp con người ta chết ngay trên đống thuốc. Người
ta nói rằng, hễ bị rắn cắn trong vòng bảy bước lùi, gặp bất cứ thứ cỏ gì cứ hái
mà nhai mà nuốt sẽ hy vọng cứu được.
Năm xưa lên
vùng kinh tế mới Tây Ninh này vì quá khó khăn nên cha và bác Năm tôi có một thời
gian đi làm nghề săn thú. Bác Năm tôi bị rắn cắn giữa khuya miệt Cây số 18, bây
giờ địa danh ấy vẫn còn, là khu ngã ba Cây Số 18 đường lên Bổ Túc, đường rẽ Suối
Ngô từ hướng Suối Dây chạy lên. Cha tôi lấy mã tấu chẻ hột nọc để hút độc nhưng
không may hột nọc văng đi mất. Bác Năm gần như hết sức lực và hết hy vọng... Kể
lại chuyện này có vong hồn bác Điệp làm chứng, bác Điệp là bộ đội xuất ngũ, vị
này có tài bắn không cần nhắm, bồng súng lên bóp cò là lấy con thịt. Bác thương
cha tôi và bác Năm vô kể, trong tình cảnh đó bác Điệp đi lùi bảy bước hái không
biết thứ lá cỏ gì nhai cho bác Năm tôi uống, rồi ông cõng bác Năm tôi vừa băng
rừng vừa chặt dây để đi, gần tới sáng mới ra đến suối Tà Ly bây giờ (gần ngã ba
Cánh Buồm của xã Suối Dây) mới gặp một ông Chàm già đang sa cá. Ông Chàm vạch mắt
bác Năm tôi xem nói bị rắn chàm quạp cắn và kêu cha tôi chạy về chòi của ông,
kêu vợ ông ta cho thuốc uống. Thuốc cũng là những thứ cỏ khô gì đó không ai còn
nhớ nữa. Bác Năm tôi toàn người đã lạnh chỉ còn trái tim đập yếu ớt là âm ấm, vậy
mà cứu được cũng may. Cám ơn bác Điệp, cảm ơn trời đất, cảm ơn Tà Rừng, Tà Ly,
cảm ơn ông già người Chàm và cây cỏ…
Cỏ dù mang phận
cỏ là vậy, nhưng con người dù tước bậc giàu sang cỡ nào đi nữa thì cuối cùng
cũng làm phân cho cỏ mà thôi, bù lại cỏ phủ cho một chiếc áo xanh đắp ngủ. Sách
Cung oán ngâm khúc có hai câu tuyệt vời về thân phận “Trăm năm còn có
gì đâu / Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì” (*). Cổ khâu là cái gò mả xưa, ít ai chăm sóc, cỏ xanh phủ đầy,
dù kẻ nằm dưới đó xưa kia là ai đi chăng nữa… Người có chức có phận thì được cỏ
xây cho cái tượng đài để người đời vinh danh, kẻ không tên không tuổi thì cỏ kết
cho một cái vòng gai yên phận… đời người ta âu cũng chỉ là có vậy. Con người sống
vui hớn hở thì nhìn cỏ đẹp như tranh “cỏ non xanh tận chân trời” khi người
buồn thì “rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”. Đó chẳng qua là cái tâm
người ta còn đặt trong vòng thế tục, một khi con người ta đủ can đảm vứt bỏ tất
cả để sống an nhàn thì cỏ lúc nào cũng mơn mởn tươi non “cỏ non như khói bến
xuân tươi / lại có mưa xuân nước vỗ trời / quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
/ con đò gối bãi suốt ngày ngơi”. Hình ảnh con đò an nhiên tự tại, gối đầu
lên bến xuân thưởng lãm bãi cỏ non như khói thật là đẹp biết bao. Con đò không
còn ngược xuôi cầu danh cầu lợi nữa.
Thói thường
con người thường hay hoảng sợ trước cảnh thịnh suy, thèm thăng tiến, phấn đấu
cho thật nhiều, tham vọng cho thật lắm, nhưng rồi mục đích không đạt được sinh
ra hụt hẫng buồn đau… Đó chẳng qua là họ chưa thấu triệt được cái quy luật của “nhiệm
vận thịnh suy vô bố úy / thịnh suy như lộ thảo đầu phô”, đã biết được cái lẽ
thịnh suy thì không còn khiếp sợ gì nữa cả, vì thịnh hay suy thì chẳng qua như
giọt sương trên đầu ngọn cỏ mà thôi… Người anh hùng chết có khi còn bị người đời
luận bàn thế này thế nọ, chứ người đẹp chết thì hồn hóa cỏ, mùa xuân lại xanh
tươi trên nấm mộ nhân tình.
Bên đường bia đá đứng chênh vênh
Chết ở Ô Giang, táng Lỗ Thành
Thất thế biết tài đâu tính vụng
Uổng công đọ sức với trời xanh
Anh hùng kim cổ đều rơi lệ
Mưa gió gào kêu đến thất thanh
Vắng lặng hai mùa hương khói lạnh
Cỏ Ngu xuân đến
lại tràn lan.
Đó là mấy câu
của Nguyễn Du cảm khái về cái chết của Hạng Vũ trong bài Mộ Sở Bá Vương.
Tương truyền khi vị anh hùng này chết thì Ngu Cơ cũng tự tự chết theo hồn hóa cỏ,
người đời gọi đó là cỏ Ngu Mỹ Nhân, khi xuân về thì lại xanh tươi trên mộ phần
của Hạng Vũ. Cỏ cũng mang cái lãng mạn si tình, cũng mang cái thủy chung cao
thượng lắm chứ!
Cỏ cũng như
người, dù hoàn cảnh có khắc nghiệt tới đâu thì vẫn vươn lên mà sống. Đất trời
tuần hoàn, bốn mùa thay đổi, cỏ xanh rồi cỏ úa, cỏ úa rồi cỏ khô… một que diêm
quẹt thôi cũng đủ làm cỏ cháy bùng, xác cỏ hóa tro lại về với đất, làm cho đất
mẹ giàu thêm để rồi hạt cỏ mùa sau lại nẩy mầm xanh lên tươi tốt… Cỏ lại tiếp tục
cái phận dưới chân người… để em đi trên cỏ non mà nghe mát rượi bàn chân… để cứu
người ta lúc ốm đau yếu bệnh… để trâu ăn no bụng mà có sức kéo cày… để vinh
danh hay kết vòng gai cho ai lỡ chuyến không về… để đẹp trong bao ánh mắt thi
nhân… để núi đồi không phải hanh khô hoang trọc…
Tản văn của Đào Thái Sơn
______________
(*) Theo bản Cung oán ngâm khúc
do Kiều Văn giới thiệu, chú thích, Nxb Đồng Nai, 3-1997