GNO - Chùa Hương muôn đời vẫn bên suối Yến giữa núi rừng Hương Sơn của Mỹ Đức, chứ ai đem được đi nơi khác mà kêu mất, mà bảo rằng phải đi tìm lại...
Ngay trước thềm xuân Mậu Tuất - 2018 này, TT.Thích Minh Hiền, Phó ban Văn hóa T.Ư, trụ trì chùa Hương hiện tại đã tìm lại được bộ cổ ảnh chùa Hương Tích xưa.
Tam quan Thiên Trù (1927)
Không chỉ là hoài niệm
Theo thư tịch cổ, vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua vùng núi rừng Hương Sơn (nay thuộc Mỹ Đức - Hà Nội) vào tháng giêng năm Đinh Hợi, niên hiệu Quang Thuận thứ 8 (1467), người đã đóng quân nghỉ lại ở thung Phụ Mã và cho binh lính thổi cơm ăn. Vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận sao Thiên Trù (một sao chủ về sự ăn uống), nên nhân đấy đặt tên. Sau đó Sư tổ Viên Quang Chân Nhân, quốc phong Thượng Lâm Viện – Tăng lục ty Hoà thượng Viên Giác tôn giả, chống gậy thiền vượt suối trèo non cùng cư dân vào dựng thảo am thờ Phật, khai sáng thiền môn Thiên Trù tự.
Trải qua nhiều đời chư Tổ gây dựng, đến nửa đầu thế kỷ 20, nơi đây được khách thập phương ngợi ca ví như tòa lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”. Nhưng đáng tiếc ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đưa quân vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn. Năm 1948, giặc lại vào đốt phá lần nữa, rồi năm 1950 quân Pháp lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù bị san phẳng.
Do chiến tranh tàn phá, những công trình nguy nga tráng lệ xưa đã không còn. Người đương thời du xuân Hương Tích tuy cũng được chiêm ngưỡng tòa ngang dãy dọc đẹp phiêu mặc như tranh giữa nơi sơn thủy hữu tình, nhưng đó là những công trình được xây dựng lại từ nửa thế kỷ nay, không mấy ai biết được quang cảnh Thiên Trù xưa rộng hẹp, dáng dấp ra sao.
Một bộ ảnh chùa Hương được chụp từ cách đây hơn 60 năm trở về vừa mới tìm lại được là kho tư liệu vô cùng giá trị, cho chúng ta được nhìn, được thấy những “toà cổ sái nguy nga bậc nhất trời Nam” trong quá khứ. Thời gian qua, TT.Thích Minh Hiền đã cho học trò đi tìm tại nhiều thư viện và trung tâm lưu trữ dữ liệu tại Pháp và Việt Nam như Viện Viễn Đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient, viết tắt EFEO), Thư viện Quốc gia Pháp (Bibliothèque nationale de France), Trung tâm lưu trữ Quốc gia I-II-III, Thư viện Quốc gia, Viện Hán-Nôm… và đã tận thấy được nhiều ảnh tư liệu lịch sử về chùa Hương. Đây là một sự kiện tin vui, bởi sau bao nhiêu năm đằng đẵng những người ưu tư với danh lam thắng tích này đi tìm trong ký ức muôn nhà, như con thơ lưu lạc đi tìm nguồn cội, đến giờ mới thấy.
Số ảnh tư liệu này chủ yếu do người Pháp chụp từ tháng 3 năm 1927 đến năm 1955 tại quần thể thắng cảnh Hương Tích, là những tư liệu có giá trị lịch sử vô cùng to lớn, lưu lại kiến trúc của quần thể chùa Hương, khách hành hương lễ Phật… Bộ cổ ảnh sẽ hiện diện trước mắt công chúng tại “Triển lãm ảnh chùa Hương xưa - nay”, tổ chức tại phòng triển lãm chùa Thiên Trù cùng với Lễ khai hội chùa Hương tới đây, ngày mồng 6 tháng Giêng năm Mậu Tuất.
Thiên Trù xưa và nay
Toàn cảnh nhìn từ sân chùa Thiên Trù (1927)
Bến Trò ngày nay san sát những hàng quán làm dịch vụ phục vụ du khách, cùng với cổng soát vé đồ sộ. Trong bộ tư liệu ảnh triển lãm, có tấm ảnh chụp Bến Trò vào năm 1927, trên bến hiện hữu chỉ một căn nhà xây mái ngói theo kiểu nhà dân để du khách dừng chân, nghỉ ngơi chốc lát trước khi lên Thiên Trù. Đường lên Thiên Trù nhỏ hẹp hoang sơ, chỉ là lối mòn nhỏ men theo những khe hẹp giữa những vách đá. Vào nửa sau thế kỷ 20, đường lên chùa được chư Tăng và người dân kiên trì mở rộng dần ra. Từ khi tiếp nối trụ trì chùa Hương đã để lại dấu ấn trên nhiều công trình kiến trúc, ngoài những công trình tại Thiên Trù, còn phải kể đến “Triều sơn lộ” - đó là con đường lát đá rộng rãi, từ bến Trò lên Thiên Trù thuận tiện cho hàng vạn du khách hành hương mà không lo tắc đường.
Tấm ảnh chụp Cổng Tam quan Thiên Trù vào năm 1927 cho thấy kiến trúc tương đồng với Nam Thiên môn ngày nay, tuy nhiên điểm khác là Cổng chùa nay chỉ có 3 cửa, trong khi 2 cửa phụ ngách đã thay bằng cột trụ biểu. Chiêm ngưỡng cổ ảnh, nhận ra cổng chùa Thiên Trù được người xưa xây theo kiểu “Ngũ môn tam cấp” với 5 cửa, phía trên tọa lạc những lầu nhỏ nhiều mái phía sau. Bước lên những bậc thềm, qua ngũ môn đến gác chuông và chính điện (tiền đường, thượng điện). Bên cạnh gác chuông có lầu trống, lầu chuông, nhà tăng già, cùng các nhà cung văn, nhà oản…
Trong Bộ ảnh triển lãm tới đây, còn có tấm ảnh chụp Tam quan năm 1955: cổng đã bị vỡ nứt toác, 2 cổng ngách phụ không còn, phần cổng to nhất ở giữa bị mất phần mái, đồng thời bị nứt rẽ làm đôi. Đây là bằng chứng cho thấy công trình bị hủy hoại do sự tàn phá của chiến tranh.
Chiêm ngưỡng những tấm ảnh năm 1927 chụp toàn cảnh nhìn từ sân chùa Thiên Trù và toàn cảnh chùa nhìn từ cổng, tất thảy người xem hẳn sẽ quá đỗi ngạc nhiên. Bởi sân chùa xưa không có gác chuông cổ kính như ngày nay, mà chạy dọc 2 bên sân là đôi tòa nhà xây hai tầng theo kiến trúc kiểu pháp có pha lẫn một vài nét phong cách Á Đông - kiểu kiến trúc nhà cửa rất thịnh hành ở Hà Nội vào nửa đầu thế kỷ 20.
Quán sát những cổ ảnh Thiên Trù xưa, ta nhận ra vào cách đây gần một thế kỷ, kiến trúc “Biệt chiếm nhất Nam Thiên” kết cấu “Ngũ môn tam cấp” - tức năm cửa ba bậc. Qua cổng đến sân, hai bên sân hiện diện đôi hai dãy nhà tranh làm nơi ăn nghỉ cho du khách trong ngày hội. Qua sân là đến bảo thềm thứ nhất, trên nền đặt một đỉnh đồng cao 3m nghi ngút khói nhang. Lên cao hơn, du khách thong dong bước trên bảo thềm thứ hai, đi giữa hai bên là những gian nhà cầu cho khách ngủ trọ. Tiến đến sân bảo thềm thứ ba cao hơn nữa, qua hai cửa tam quan nối vào Tam Bảo chính là nơi thờ Phật. Ở đó, tọa lạc gác trống bên trái và gác chuông bên phải.
Hầu hết những công trình xưa đã không còn, ngày nay kiến trúc chùa Thiên Trù gồm 4 cấp. Ở cấp thứ nhất có một cổng lớn 2 tầng, trên đề chữ “Nam Thiên môn” (cửa trời Nam). Dọc 2 bên sân phía trước gác chuông là 2 dãy nhà mới xây dựng theo lối kiến trúc cổ, nổi lên hai tháp Tả - Hữu vu cao mấy tầng lầu mái ngói, mang dáng dấp phong cách kiến trúc Đông Á. Đây là những hạng mục mới được xây dựng hoàn thành trong những năm gần đây. Cấp nền trên cùng là tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà Tổ... Công trình kiến trúc tiêu biểu ngày nay là gác chuông được dựng năm 1982 – 1985, theo kiểu chùa Ngăm tọa lạc ở giữa sân Thiên Trù.
Động Hương Tích muôn năm nguyên vẻ cũ
Lối lên động Hương Tích (1927)
Thưởng lãm những cổ ảnh đen trắng chụp động Hương Tích và đường lên cổng động Hương Tích cách đây hơn 60 năm, thấy quang cảnh thiên nhiên giống hệt như ngày nay. Cổng động, đường từ cổng xuống động vẫn ngàn năm muôn vẻ cũ. Chỉ có khác chăng, ngày nay có con đường Quán Âm kiều rộng rãi bên ngoài cổng động, chứ không phải lối mòn nhỏ hẹp lổn nhổn đá thuở xưa. Những năm trước đây, đoạn đường vào cổng động Hương Tích vô cùng chật hẹp, suốt những ngày mùa lễ hội luôn xảy ra ách tắc bởi dòng người quá tải. Đường đá cheo leo trên vách núi nguy cơ có thể sụt lở bất cứ lúc nào. Bởi vậy, chùa đã tổ chức xây dựng một cầu cạn vĩnh cửu trước cửa động Hương Tích để phục vụ người dân vào lễ Phật thuận tiện hơn, đặt tên Quán Âm kiều, hoàn thành vào năm 2009.
Từ xưa, chư vị Tổ sư tổ chức sự kiện kỷ niệm Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ-tát vào ngày 19 tháng 2 âm lịch hàng năm. Ngày nay, cứ từ 11 giờ đêm 18-2 đến 1 giờ sáng 19-2 âm lịch, hàng nghìn ngọn nến được thắp lên trong động Hương Tích trong lễ “Ngũ bách danh” (lễ lạy 500 danh hiệu Đức Quán Âm) với hàng nghìn Tăng Ni và Phật tử tham dự. Lòng động Hương Tích bao la, ôm chứa hàng ngàn Phật tử. Mặc dù du khách rất đông, nhưng không hề có sự ách tắc chen lấn xô đẩy, bởi tất thảy mọi người đều ngồi xếp hàng trật tự, ai đến được đâu thì ngồi tiếp theo ở đó, không ai vượt qua người khác để tiến lên. Những tiếng niệm Phật, tụng kinh hòa âm vào nhau tạo thành bản giao hưởng khổng lồ cơ hồ như lay động cả vũ trụ.
Khóa lễ Ngũ bách danh tại động Hương Tích (1955)
Chiêm ngưỡng cổ ảnh chụp cảnh Tổ đệ thập và các Phật tử trong khóa lễ ngũ bách danh tại Hương Tích năm 1955, thấy tham dự khóa lễ không không có sự đông đúc của hàng nghìn người, mà sau lưng Tổ đang thành kính đảnh lễ Phật chỉ vài chục bà vãi già chắp tay niệm Phật. Tuy khóa lễ ít người, nhưng rất trang nghiêm. Tam bảo trong Động Hương Tích thuở xưa cũng tọa lạc những pho tượng quý như thấy ngày nay, trong đó lừng danh nhất là pho tượng Đức Quan Âm bằng đá xanh tọa lạc chính giữa tòa Tam bảo, tượng do võ quan Nguyễn Huy Nhật cho tạc vào thời Tây Sơn năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1793) để cúng dường.
Thưởng lãm ảnh để thấy Động Hương Tích vẫn ngàn năm muôn vẻ cũ, chỉ dòng người đến lễ Phật là ngày càng đông đúc thêm lên, nhưng lòng thành kính thì không đổi khác, như câu thơ xưa:
Tam quan sau chiến tranh (1955)
Bến Trò (1927)
Cầu Hội (1955)