Hư Không Tạng Bồ-tát, còn gọi Hư Không Dựng Bồ-tát, Hư Không Khố Bồ-tát, Hư Không Quang Bồ-tát, Phạn: Akasagarbha; Trung Quốc (bính âm): Xukongzang Pusa; Nhật Bản: Kokuzo Bosatsu; Hàn Quốc: Heogongjang Bosal; Tây Tạng: Namkha’i Nyingpo, Nan makhahi-shin-po, Nam-mkhah-mdsod. Hư Không Tạng Bồ-tát là một vị Bồ-tát có phước tạng và trí tạng vô lượng, đồng như hư không, rộng lớn vô biên, lại còn dùng vô lượng pháp bảo bố thí để làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh1, được thờ phụng trong Phật giáo Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc; hình tượng của Ngài gắn liền với đại chủng (mahabhuta) của không gian (akasa). Đôi khi Ngài còn được biết đến dưới cái tên Gaganaganja, có nghĩa là “viên ngọc quý của bầu trời”2. Mật hiệu: Như Ý Kim Cang, Phú Quý Kim Cang, Vô Tận Kim Cang3. Hóa thân phẫn nộ của Ngài là Đại Tiếu Minh Vương.4
Trong chúng Bồ-tát, Hư Không Tạng Bồ-tát chuyên chủ về trí tuệ, công đức, tiền tài, là vị tùy tùng phò tá hàng đầu của Tam thế Phật, công đức lồng lộng khắp hư không, trí tuệ vô biên không thể đếm xuể, lòng nhẫn nhục tựa kim cương, tinh tiến mạnh tựa gió táp, có đầy đủ mọi tam muội. Ngài có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của chúng sinh được như ý nguyện, khiến chúng sinh giành được lợi ích vô cùng5. Ngài có thể sinh ra báu vật vô lượng, thỏa mãn những mong muốn của chúng sinh, có thể nói Ngài là hình tượng của cải điển hình.6
Tên gọi Hư Không Tạng của Ngài có thể được dịch là “không gian kho tàng vô biên"hoặc “kho tàng vô hạn”. Còn ý nghĩa của “Hư Không Tạng Bồ-tát"là tử cung của hư không hay là mẫu thể của hư không, cũng chính là sự nuôi dưỡng trong hư không, tức chỉ công đức rộng lớn như không gian bao la7; là hai tạng phúc, trí vô lượng, giống như hư không, quảng đại vô biên. Chữ “tạng"lại có ba hàm nghĩa:
(1) Năng tạng danh tạng: Công đức của Hư Không Tạng Bồ-tát tập hợp tất cả phúc đức thế gian và xuất thế gian, vô biên vô tế, không có chướng ngại.
(2) Sở tạng danh tạng: Sự tập hợp của công đức, tư lương vô lượng của chư Phật; chúng sinh do phúc mỏng nên không thể cảm nhận được, Hư Không Tạng Bồ-tát bèn vì chúng sinh thể hiện sự tích lũy này.
(3) Năng sinh danh tạng: Hư Không Tạng Bồ-tát thương xót chúng sinh, mở tạng pháp giới, sinh ra thất bảo kim cương vô lượng, ban cho tất cả chúng sinh.
Về nơi ở của Hư Không Tạng Bồ-tát, có hai thuyết. Thuyết thứ nhất nói rằng Ngài ở cõi Phật Bảo Trang nghiêm của thế giới Đại Trang nghiêm phía Đông theo Đại Tập kinh; một thuyết khác cho rằng Ngài ở cõi Phật Thắng Hóa phu tạng của thế giới Nhất thiết Hương tập tại phương Tây theo Hư Không Tạng Bồ-tát kinh.8
Tổng quan
Hư Không Tạng Bồ-tát được xem là một trong tám vị Đại Bồ-tát. Ngài là vị Đại Bồ-tát của minh triết và từ bi, người nắm giữ những kho tàng vô hạn lượng, có đủ hai kho báu trí tuệ và phúc đức vô tận như hư không, vì vậy có thể sinh ra báu vật vô lượng, thỏa mãn những mong cầu của chúng sinh. Ngài đôi khi được biết đến như là người anh em song sinh của Bồ-tát Địa Tạng, và thậm chí còn được đề cập ngắn gọn trong Địa Tạng vương Bồ-tát bổn nguyện kinh (Purvapranidhana Sutra).
Vào thế kỷ VIII, tín ngưỡng Hư Không Tạng truyền vào Nhật Bản, giới Tăng lữ khắp nơi tu hành Hư Không Tạng, cầu mong nghe được trì pháp để gia tăng trí nhớ. Trong dân gian, tín ngưỡng Bồ-tát Hư Không Tạng cũng rất phổ biến, để cầu tăng phúc đức, trí tuệ, tiêu trừ tai họa.9
Không Hải (Kūkai), người sáng lập Phật giáo Chân Ngôn tông, đã gặp gỡ một nhà sư nổi tiếng, người được cho là đã nhiều lần trì tụng chân ngôn Hư Không Tạng (Ākāśagarbha) khi còn là một Tăng sĩ trẻ tuổi. Không Hải đã tham gia một buổi hướng dẫn về Lai Văn Trì Hư Không Tạng/Gumonji Kokuzo với ông. Khi tụng chân ngôn, Không Hải trải qua quán tưởng linh ảnh, theo đó Hư Không Tạng bảo Không Hải đi đến nhà Đường của Trung Quốc để tìm hiểu về Đại Nhật kinh (Mahavairocana Abhisaṃbodhi Sutra)10.Sau đó, ông đến Trung Quốc để học Đường mật (唐密: trường phái bí truyền thời nhà Đường) từ Huệ Quả, và sau đó tiếp tục thành lập giáo phái Chân Ngôn của Phật giáo bí truyền Nhật Bản vào thời Heian. Ở Nhật, Hư Không Tạng cũng được thờ phượng như là hiện thân của vị Sơn thần Asama Daimyojin (Đại Minh vương) trong tín ngưỡng Thần đạo, được thờ ở quận Shizuoka gần Tokyo. Kiểu mẫu phổ biến nhất về chuyện này là hình ảnh Hư Không Tạng từ núi Asama, nơi Ngài được thờ phượng như là hóa thân Phật giáo của Đại Minh vương Asama bên Thần đạo. Ngài thường được thể hiện đứng cặp hai bên bởi Amaterasu (Thái Dương Thần nữ) và Susa-no-o (Phong Lôi Thần).11
Được thờ phượng chủ yếu bởi các phái Mật tông ở Trung Quốc, Nhật Bản và Tây Tạng, Hư Không Tạng Bồ-tát được biểu thị trong các mạn-đà-la Thai tạng giới và Kim cương giới như một vị thần đơn độc, với các hình tướng có thể khác nhau. Vị Bồ-tát này xưa kia được sùng mộ sâu xa nhưng sự thờ phượng Ngài suy tàn dần qua các thế kỷ và hình tượng về Ngài rất hiếm. Chỉ có Chân Ngôn tông còn sùng tín Ngài nhưng vì sự thờ phượng phần lớn được giữ kín nên tín đồ thế tục thường không biết đến.12
Sự tích về Hư Không Tạng Bồ-tát
Trong kiếp quá khứ có một vị Chuyển luân Thánh vương tên là Phúc bảo Trang nghiêm, được đầy đủ thất bảo, cung điện thành quách vô cùng trang nghiêm. Mỗi vị phi tử của vua Phúc bảo Trang nghiêm đều sinh ra một vị hoàng tử có thiện căn, được hóa sinh từ nguyện lực, một vị tên Sư Tử, một vị tên là Sư Tử Dũng Bộ. Hai vị hoàng tử vừa sinh ra liền đồng thanh ca tụng Phật pháp với vua cha. Vua cha vô cùng hoan hỷ, liền dùng rất nhiều châu báu để cúng dường Phật.
Về sau, Sư Tử và Sư Tử Dũng Bộ từ bỏ ngôi vua, xuất gia học đạo, không lâu sau dựa vào trí tuệ mà thành tựu, thực thi Phật sự trong thế giới chư Phật, tuyên thuyết Phật pháp. Khi đó, vua Phúc bảo Trang nghiêm nghe Phật pháp, liền đi đến cõi Phật của Phật Vô Cấu Viêm Vô Lượng Quang Vương; nhìn thấy hai người con xuất gia thành đạo, ông rất muốn biết thành quả tu hành của họ. Thế là Phật Vô Cấu Viêm Vô Lượng Quang Vương liền gọi Sư Tử Dũng Bộ đến thể hiện thần thông.
Sư Tử Dũng Bộ chạm tay vào hư không, ba nghìn thế giới sáu loại chấn động, lại giơ tay chạm vào hư không, trong không gian liền có tiếng trống tự kêu và tiếng nhạc hòa nhã vang lên; lại giơ tay chạm hư không một lần nữa, có rất nhiều hoa báu kỳ diệu mềm mại từ trên trời rơi xuống, còn có rất nhiều trang nghiêm từ hư không không ngừng tuôn ra, tích đầy ba nghìn đại thiên thế giới. Lúc đó, có thiên thần hát rằng:
“Bồ-tát này đến với thế giới, nhất định thành tựu công đức của Hư Không Khố Tạng, có thể thuận theo nhu cầu của chúng sinh, trong hư không sinh ra châu ngọc để thỏa mãn họ”.
Vua Phúc bảo Trang nghiêm khi nhìn thấy thành tựu của Sư Tử Dũng Bộ bèn lập tức lập con trai khác là Thắng Tuệ lên làm vua, bản thân xuất gia học đạo. Vua Phúc bảo Trang nghiêm cũng chính là Phật Câu Lưu Tôn sau này, Sư Tử chính là Phật Thích Ca Như Lai, Sư Tử Dũng Bộ là Hư Không Tạng Bồ-tát, hoàng tử Thắng Tuệ chính là Phật Di Lặc trong tương lai.13
Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ-tát
Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ-tát là biểu thị của Ngũ Trí Như Lai. Họ được cho mang lại sức khỏe, tài lộc, tuổi thọ, trí tuệ.
Mật tông lại có thuyết Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ-tát, cho Hư Không Tạng Bồ-tát có 5 đức phân thân, phối trí ở 5 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung.14
Trong mạn-đà-la Kim cương giới, Ngài mang năm hình tướng khác nhau, là những nét mặt chiêm nghiệm của năm vị Ngũ Trí Như Lai. Đây là mạn-đà-la “Ngũ Đại Hư Không Tạng"(tiếng Nhật: Godai Koku-zo). Họ được biểu thị như là các Bồ-tát vai phải để trần, với một mũ miện cao, nhiều vòng cổ và vòng tay. Họ ngồi trong thế kim cương tọa, cả hai bàn chân được giấu trong áo choàng. Các vật cưỡi của họ thường là ngựa, sư tử, chim công, voi, chim trĩ hoặc chim sí điểu (Garuda).15
Trong mạn-đà-la truyền thống, Ngũ Đại Hư Không Tạng được sắp xếp như sau:
Tên |
Phương hướng |
Màu sắc |
Đức Phật nối kết |
Hư Không Tạng Pháp Giới/Dharmadhatu Akasagarbha |
Trung tâm |
Trắng |
Đại Nhật Như Lai/Vairocana |
Hư Không Tạng Kim Cương giới/Vajradhatu Akasagarbha |
Đông |
Vàng |
Phật A Súc Bệ/Akṣobhya |
Hư Không Tạng Bảo Tích/Ratnaprabha Akasagarbha |
Nam |
Xanh lam |
Bảo Sanh Như Lai/Ratnasambhava |
Hư Không Tạng Liên Hoa/Padma Akasagarbha |
Tây |
Đỏ |
A Di Đà/Amitābha |
Hư Không Tạng Nghiệp/Karma Akasagarbha |
Bắc |
Đen |
Bất Không Thành Tựu Phật/Amoghasiddhi |
Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ-tát còn được gọi là Ngũ Đại Kim Cương Hư Không Tạng, chỉ năm vị Bồ-tát Pháp Giới Hư Không Tạng, Kim Cương Hư Không Tạng, Bảo Quang Hư Không Tạng, Liên Hoa Hư Không Tạng và Nghiệp Dụng Hư Không Tạng, là ý nghĩa tam muội của năm vị Phật: Đại Nhật Như Lai, A Súc Phật, Bảo Sinh Phật, A Di Đà Phật, Thích Ca Như Lai khi trụ trong bảo ngọc như ý, là do Phật biến hóa thành. Danh hiệu, hình tượng, pháp khí, vật cưỡi của năm vị Bồ-tát không giống nhau, cụ thể như sau:
Hình tượng của Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ-tát, theo ghi chép trong kinh Phật, là năm vòng tròn nhỏ vẽ trong một vòng tròn sáng lớn.
- Ở giữa: Pháp Giới Hư Không Tạng.
Biệt danh: Giải Thoát Hư Không Tạng, Trí Tuệ Hư Không Tạng.
Ngũ Phật: Đại Nhật Như Lai.
Hình ảnh: Màu trắng, tay trái cầm móc câu, tay phải giữ ngọc báu.
Vật cưỡi: Ngựa.
- Phương Đông: Kim Cương Hư Không Tạng.
Biệt danh: Phúc Trí Hư Không Tạng, Ái Kính Hư Không Tạng.
Ngũ Phật: Phật A Súc.
Hình ảnh: Màu vàng, tay trái cầm móc câu, tay phải cầm kim cương bảo.
Vật cưỡi: Sư tử.
- Phương Nam: Bảo Quang Hư Không Tạng.
Biệt danh: Năng Mãn Hư Không Tạng, Quan Vị Hư Không Tạng.
Ngũ Phật: Bảo Sinh Phật.
Hình ảnh: Màu xanh, tay trái cầm móc câu, tay phải cầm ngọc ba cánh, tỏa sáng rực rỡ.
Vật cưỡi: Voi.
- Phương Tây: Liên Hoa Hư Không Tạng.
Biệt danh: Thí Nguyện Hư Không Tạng, Năng Mãn Hư Không Tạng.
Ngũ Phật: A Di Đà Phật.
Hình ảnh: Màu đỏ, tay trái cầm móc câu, tay phải cầm đóa sen lớn màu đỏ.
Vật cưỡi: Chim công.
- Phương Bắc: Nghiệp Dụng Hư Không Tạng.
Biệt danh: Vô Cấu Hư Không Tạng, Phúc Đức Hư Không Tạng.
Ngũ Phật: Thích Ca Như Lai.
Hình ảnh: Màu tím sẫm, tay trái cầm móc câu, tay phải cầm kim cương bảo/chùy yết-ma.
Vật cưỡi: Chim Garuda.
Coi Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ-tát là bản tôn để tu hành, gọi là Ngũ Đại Hư Không Tạng pháp, thường tu để cầu mong tăng thêm ích lợi, sẽ giành được công đức tăng ích, tức tai. Pháp tu này rất thịnh hành ở Nhật Bản.16
Kinh cang cát tường đại thành tựu phẩm chép rằng, ấn tướng chung của năm vị Hư Không Tạng Bồ-tát này là ấn ngoại ngũ cổ, hai ngón giữa làm bình báu, đồng thời tám đầu ngón còn lại quán tưởng bình báu.17
![]() |
Mạn-đà-la Ngũ Đại Hư Không Tạng, thời kỳ Momoyama - đầu Edo, Nhật Bản |
Hình tượng của Hư Không Tạng Bồ-tát
Hình tượng của Hư Không Tạng Bồ-tát tương đối hiếm. Hình như chưa từng có những biểu tượng về Hư Không Tạng Bồ-tát ở Ấn Độ hay Đông Nam Á. Những hình ảnh từ truyền thống Phật giáo Tây Tạng miêu tả Ngài như một vị Bồ-tát mang vương miện và châu báu, ngồi trên tòa sen, cầm một bảo châu và một hoa sen. Hình ảnh của vị Bồ-tát này thường được hạn chế hơn nơi một vài mạn-đà-la của Mật tông, nhất là truyền thống Chân Ngôn tông ở Nhật Bản. Ở đây, Ngài được miêu tả là một trong tám vị Bồ-tát vây quanh chư Phật của truyền thống Đại thừa và mang vương miện, châu ngọc, Tăng bào và khăn quàng vai thêu hoa.18
Ở Trung Hoa và Tây Tạng, Ngài được tạo tác trong tư thế ngồi, tay phải trong thí nguyện ấn, tay trái trong giáo hóa ấn. Búi tóc Ngài mang những hình tượng của năm vị Ngũ Trí Như Lai và đôi khi một vật trang điểm hình bảo tháp (stupa). Ngài được coi là một trong hai vị hộ pháp (cùng với Bất Động Minh Vương/Achalanatha) của Đại Nhật Như Lai (Vairocana), và là một trong tám Bồ-tát vây quanh các đối tượng thờ tự chính của Đại thừa.
Theo Cầu văn trì pháp được Thiên Vô Úy (Subhakarasimha) dịch năm 717, Hư Không Tạng Bồ-tát được mô tả như sau: “Ngài có kim thân màu vàng tươi… Ngài ngồi bán già trên đóa sen quý và đầu gối phải của Ngài che chân trái (kim cương tọa - vajrasana). Khuôn mặt Ngài cực kỳ tuấn tú và biểu hiện đầy niềm hoan hỷ. Trên mũ miện trân quý của Ngài là những hình tượng của năm vị Ngũ Trí Như Lai ngồi trong thế kim cương tọa. Tay trái của Bồ-tát cầm một đóa sen trắng với cọng màu hơi đỏ, và trên đài sen này là viên ngọc ước cintamani màu thiên thanh (vaidurya) phát ra những tia lóng lánh rực rỡ. Tay phải Ngài kết ấn thí nguyện với năm ngón tay duỗi thẳng và lòng bàn tay ngửa ra phía trước. Cũng trong kinh đó, Ngài được gọi là ‘Mãn Nguyệt Phật’: Ngài phải được biểu hiện ở vị trí trung tâm”.
Theo Dai-Kokuzo Bosatsu Nenju-ho (Đại Hư Không Tạng Bồ-tát niệm chú nghi), Ngài cầm một đóa sen xanh trong bàn tay kết ấn vô úy (abhaya mudra).19
Theo sự miêu tả trong Quán Hư Không Tạng Bồ-tát kinh, hình ảnh của Hư Không Tạng Bồ-tát là thân màu vàng tía, đầu đội mũ trời, trên đỉnh có ngọc như ý. Trên mũ trời có 35 tượng Phật thị hiện20, ngọc như ý hiện lên thập phương chư Phật21 hiện ra thân của Hư Không Tạng Bồ-tát, cao hai do tuần. Nếu hiện thân lớn thì giống như Quán Thế Âm, vị Bồ-tát này ngồi xếp bằng, tay nâng châu ngọc như ý, châu như ý diễn chúng pháp âm.
Giác thiền sao dẫn Lý thú thích, quyển thượng, rằng: Hư Không Tạng Bồ-tát, tay phải cầm báu kim cang, tay trái làm ấn thí nguyện, ngồi bán già. Lại nói: “Tụng niệm kết hộ vân, Hư Không Tạng Bồ-tát thân màu vàng kim, đầu đội mũ ngũ Phật, tay trái làm ấn thí vô úy, tay phải cầm hoa sen xanh, trong hoa có báu pha lê đỏ”.22
Ngoài ra, có thể kể ra ba thân của vị Bồ-tát này gồm:
1- Hư Không Tạng Bồ-tát, là chủ tôn viện Hư Không Tạng thuộc mạn-đà-la Thai tạng giới Mật giáo. Hình tượng của Tôn vị này mặc trang phục màu trắng, thân màu da người/nâu hồng, ngồi trên tòa sen, đầu đội mũ ngũ Phật, cánh tay phải co lại, cầm thanh kiếm rực ánh hào quang hoặc có ánh lửa lấp lánh; tay trái đặt cạnh thắt lưng, cầm hoa sen, trên hoa sen có bảo châu như ý23, bảo châu có một nhánh, ba nhánh, hoặc năm múi. Bảo châu một nhánh biểu thị tâm Bồ-đề của nhất bảo tướng; bảo châu ba nhánh biểu thị cho ba bộ: bộ Phật, bộ Liên hoa, bộ Kim cang của cảnh giới Thai tạng, đại định, trí, bi; bảo châu năm múi biểu thị cho ngũ trí của cảnh giới Kim cang, đồng thời cũng biểu thị cho phúc đức nội chứng. Từ đây xuất hiện năm Bồ-tát Ba-la-mật bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. Mười Bồ-tát Ba-la-mật quyến thuộc của Ngài mặc áo yết-ma, hóa hiện từ hai loại phúc đức, trí tuệ trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ-tát. Bảo châu, kiếm mà Ngài cầm tượng trưng cho hai loại phúc đức và trí tuệ, đầu đội mũ ngũ Phật biểu thị cho quả đức có đủ vạn đức viên mãn, bảo kiếm cầm trên tay phải biểu thị cho trí tuệ nội chứng của Ngài. Năm Bồ-tát Ba-la-mật Tuệ, Phương, Nguyện, Lực, Trí ở phía sau lưng do vậy mà sinh ra24. Mật hiệu là Như Ý Kim Cương, hình Tam-muội-da là kiếm huệ/đao trí tuệ.
- Việc thờ Bồ-tát Hư Không Tạng là viện thứ 10 (Hư Không Tạng viện) trong 12 đại viện thuộc mạn-đà-la Thai tạng giới Mật giáo, nằm ở phía dưới của viện Trì Minh.
Viện này tiêu biểu cho bi, trí hợp nhất, bao hàm muôn đức, có khả năng ban bố cho chúng sinh tất cả vật quý báu, tuy có đầy đủ trí đức nhưng dùng phước đức là chính. Trong viện có 28 tôn vị, chính giữa là Bồ-tát Hư Không Tạng, tay phải cầm kiếm biểu thị cho trí đức, tay trái cầm hoa sen tiêu biểu cho phước đức, các Tôn vị khác được phân làm hai bên trái và phải, mỗi bên có 2 hàng: hàng trên, bên phải gồm có 5 vị Bồ-tát Ba-la-mật, biểu thị cho phước đức môn: Đàn, Giới, Nhẫn, Tấn, Thiền; hàng dưới bên phải gồm có các Bồ-tát: Cộng Phát Ý Chuyển Luân, Sanh Niệm Xứ, Phẫn Nộ Câu, Bất Không Câu; hàng trên, bên trái gồm có 5 vị Bồ-tát Ba-la-mật, tượng trưng cho trí môn: Bát-nhã, Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí; hàng dưới, bên trái gồm có 5 vị Bồ-tát: Vô Cấu Thệ Tô-bà-hô, Kim Cang Châm, Tô-tất-địa-yết-la, Mạn-đồ-la. Thiên Thủ Quán Âm ở đầu bên phải lấy viện Quán Âm của Liên Hoa bộ làm quả đức, Bồ-tát Kim Cang Tạng Vương ở bên trái lấy viện Kim cang thủ của Kim cang bộ làm quả đức.
Ngoài ra, còn có thuyết cho rằng 2 tôn vị Thiên Thủ, Kim Cang Tạng và quyến thuộc của họ được chia thành 2 viện khác nhau, cho Bồ-tát Hư Không Tạng thuộc về Phật bộ, cùng với 2 tôn vị ở 2 bên, đồng ở trong viện này đều tiêu biểu cho đức của 3 bộ Thai tạng giới.25
2- Hư Không Tạng Bồ-tát là vị Bồ-tát hầu cận bên phải Đức Phật Thích Ca trong viện Thích Ca của mạn-đà-la Thai tạng giới. Hình tượng của tôn vị này: Ngài mặc thiên y, thân có màu vàng kim để hiện rõ quả đức26, đứng trên tòa sen nở, mặt hơi hướng về bên trái, bàn tay phải dựng đứng, co ngón trỏ và ngón giữa, cầm phất trần trắng, tay trái nắm lại úp ở trước bụng, cầm hoa sen, trên hoa sen có ngọc châu màu xanh lá cây. Mật hiệu là Vô Tận Kim Cương, hình Tam-muội-da là ngọc châu xanh lục trên hoa sen.27
3. Hư Không Tạng Bồ-tát là một trong 16 tôn vị thuộc hiền kiếp trong mạn-đà-la Kim cang giới (còn gọi là Bồ-tát Kim Cang Tràng, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Kim Cương Chướng, Bồ-tát Bảo Chướng) là vị thứ ba trong bốn tôn vị ở phía Nam của phương đàn thuộc ngoại viện. Hình tượng của tôn vị này, thân màu trắng/trắng hồng, tay trái nắm lại chống vào thắt lưng, tay phải cầm hoa sen, trên hoa sen có hạt bảo châu. Mật hiệu là Phú Quý Kim Cang, Viên Mãn Kim Cang, hình Tam-muội-da là hạt bảo châu có ba cánh, ấn tướng là Kim cang phược, tức là hai ngón trỏ làm thành hình bình báu, hai ngón cái dựng đứng.28
Bên cạnh đó, những phương diện thường được trình bày trong mạn-đà-la Kim cương giới là:
- Đứng, trang phục như một Bồ-tát, vai phải để trần với một mũ miện. Có năm vị Ngũ Trí Như Lai ngồi trên các cánh sen, một búi tóc có hình bảo tháp, hai tay trong tư thế vô úy ấn và thí nguyện ấn hoặc cầm một biểu tượng mặt trời và một quyển sách.
- Ngồi trên một tòa sen, với một mũ miện cao và một búi tóc hình lăng trụ, mặc Tăng bào được trang sức với nhiều vòng tay và vòng cổ, vai phải để trần, tay phải cầm hoa sen, tay trái cầm một gậy thúc voi (ankusa).
- Trong hình tướng được gọi là “Lai Văn Trì Hư Không Tạng"(Gumonji Kokuzo), Ngài ngồi trong tư thế thanh nhàn vương giả (rajalilasana) trên đóa sen, tay phải cầm hoa sen còn trong búp, tay trái làm thí nguyện ấn hoặc cầm ngọc như ý hay một đóa sen trắng.
- Ngồi trên tòa sen, đôi khi đặt trên lưng vật cưỡi, mang một mũ miện cao, tay phải cầm ngọc như ý, tay trái nắm ngọn giáo. Hình tướng này được gọi là Phúc Nhất Hư Không Tạng (Fukuichiman Kokuzo). Tay phải cũng có thể cầm một thanh kiếm thẳng đứng với những ngọn lửa sáng rực vây quanh thành vòng hào quang, trong khi tay trái cầm một đóa sen hay một viên ngọc như ý.29
Bên cạnh đó, Hư Không Tạng Bồ-tát trong tranh màu trên nền vải theo nghệ thuật Thangka, vẽ từ đời Thanh, lưu ở Bảo tàng Cố Cung, Bắc Kinh có sắc thân màu xanh, đầu đội bảo quan, thân khoác thiên y năm màu, tay phải cầm bình ngọc, tay trái đặt bên hông, Ngài ngồi trên bảo tòa hoa sen.30
Ngoài ra, Hư Không Tạng Bồ-tát cũng thường hóa hiện thành ngôi sao xuất hiện đầu tiên sau khi trời tối, vì vậy nên cũng được xem là đồng thể với Minh tinh Thiên tử.31
Kinh văn
Một số bản kinh Đại thừa đề cập đến Bồ-tát Hư Không Tạng như là nhân vật trung tâm:
Đại tập Đại Hư Không Tạng Bồ-tát sở vấn kinh (Arya Gaganaganja Pariprccha Nama Mahayana Sutra)
Hư Không Tạng Bồ-tát kinh (Akasagarbha Bodhisattva Sutra)
Phật thuyết Hư Không Tạng Bồ-tát thần chú kinh
Hư Không Tạng Bồ-tát thần chú kinh (Akasagarbha Bodhisattva Dharani Sutra)
Quán Hư Không Tạng Bồ-tát kinh
Hư Không Tạng Bồ-tát năng mãn chư nguyện tối thắng tâm Đà-la-ni cầu văn trì pháp
Đại Hư Không Tạng Bồ-tát niệm tụng pháp
Thánh Hư Không Tạng Bồ-tát Đà-la-ni kinh
Phật thuyết Hư Không Tạng Đà-la-ni
Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ-tát tốc tật Đại thần nghiệm bí mật thức kinh
Hư Không Tạng Bồ-tát vấn thất Phật Đà-la-ni chú kinh
Như Lai phương tiện thiện xảo chú kinh
Ngoài ra còn có Hư Không Tạng Bồ-tát kinh, Phạn: Akasagarbha-sutra, còn gọi Hư Không Tạng kinh, Hư Không Tạng Bồ-tát thần chú kinh, 1 quyển, do ngài Phật-đà-da-xá dịch vào đời Dao Tần, được xếp vào Đại Chánh tạng tập 13. Nội dung kinh này nói về việc khi Đức Phật đang ở núi Khư-la-để-sí, thì Bồ-tát Hư Không Tạng từ trụ xứ của Đức Phật Thắng Hoa Phu Tạng ở thế giới Nhất Thiết Hương Tập Y nằm về phương Tây hiện đến, dùng thần lực biến thế giới Ta-bà thành Tịnh độ, rồi biến trong hai tay của đại chúng đều có hạt bảo châu ma-ni như ý, từ trong hạt châu này tuôn ra các thứ báu. Người niệm danh hiệu Bồ-tát này sẽ được trí nhớ dai, ý nguyện viên mãn.
Đồng bản dị dịch với kinh này có kinh Hư Không Tạng Bồ-tát thần chú (1 quyển), do ngài Đàm-ma-mật-đa dịch vào đời Lưu Tống và kinh Hư Không Dựng Bồ-tát (2 quyển), do ngài Xà-na-quật-đa dịch vào đời Tùy.32
Ngoài ra, Ngài xuất hiện ngắn gọn nơi chương cuối của kinh Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện (Kṣitigarbha Bodhisattva Purvapranidhana Sutra), thỉnh cầu Đức Phật thuyết giảng về lợi ích của việc tán thán cả kinh văn và Bồ-tát Địa Tạng.33
Pháp tu của Hư Không Tạng Bồ-tát
Một pháp tu đơn giản của Hư Không Tạng Bồ-tát, thường được gọi là Cầu văn trì pháp, mục đích để tăng thêm trí nhớ, là mật pháp tu trì để giành được năng lực trong việc nghe nhìn, tri giác lâu dài không bị lãng quên.34
Hư Không Tạng cầu văn trì pháp, còn gọi Hư Không Tạng cầu văn trì pháp kinh, Hư Không Tạng Bồ-tát mãn nguyện tối thắng tâm Đà-la-ni kinh, Cầu văn trì kinh, Cầu văn nghi trì quỹ, Cầu văn trì pháp, Cầu văn trì quỹ. Gọi đủ: Hư Không Tạng Bồ-tát năng mãn chư nguyện tối thắng tâm Đà-la-ni cầu văn trì pháp.
Nghi quỹ, 1 quyển, do ngài Thiện Vô Úy dịch vào đời Đường, Trung Quốc, được xếp vào Đại Chánh tạng tập 20.
Bộ Nghi quỹ này được trích từ phẩm Thành tựu nhất thiết nghĩa trong kinh Kim cang đảnh. Nội dung nói về Đà-la-ni năng mãn chư nguyện tối thắng tâm và đàn pháp, ấn pháp… của Cầu văn trì pháp.35
(1) Sắp xếp Phật đàn ở trong phòng sạch sẽ, yên tĩnh, trên bàn cúng đặt tượng Hư Không Tạng Bồ-tát, mặt của tượng ngoảnh về hướng Tây hoặc hướng Bắc, dùng vải sạch để phủ lên tượng, phía trước để những đồ cúng như nước sạch.
(2) Đọc thần chú, uống nước sạch. Sáng sớm ngủ dậy, sau khi rửa tay, mang một cốc nước ấm đặt trên bàn, hai tay chắp lại, tụng niệm ba lần câu: “Nam-mô Hư Không Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát”, sau đó tụng niệm 7 lần câu thần chú của Hư Không Tạng Bồ-tát, uống cạn nước sạch. Câu thần chú Hư Không Tạng Bồ-tát:
Ani-lajabi Kinmbu-sajabi Yaba-najabi Bache-sami Pada-lajabi Dana-balabi Sadala-garuani Huma-huma Maha-garuaniga Svaha.
(3) Lễ bái, cúng dường. Thành tâm lễ bái, bỏ tấm vải phủ trên tượng, dâng đồ cúng dường cho Bồ-tát.
(4) Quán tưởng trong hư không xuất hiện Hư Không Tạng Bồ-tát, giữa tim Bồ-tát có nguyệt luân hoa sen, bên trên có chủng tử tự dựng đứng, phát ra ánh sáng màu vàng kim, ánh sáng chảy ra tràn trề, từ đỉnh đầu của mình chảy vào cơ thể. Cứ quán tưởng như vậy một khoảng thời gian, nếu cơ thể cảm thấy mệt mỏi thì ngừng lại.
(5) Hồi hướng. Tu hành công đức, trì tụng thành hiệu và lời chú của Hư Không Tạng Bồ-tát, ngoài việc tăng thêm trí nhớ, còn có thể có được những công đức dưới đây:
- Giải thoát tất cả mọi nỗi khổ, tiêu trừ bệnh tật và khổ não, giải thoát luân hồi.
- Đáp ứng mọi nguyện vọng, như có thể cầu được phú quý, hiểu sâu biết rộng, giải thoát, trường thọ.
- Tiêu diệt tất cả mọi trọng tội, như 10 ác nghiệp, 5 nghịch tội.
- Không gặp bất cứ tai nạn nào, miễn trừ hỏa hoạn, lũ lụt, đao thương, độc hại…
- Lúc lâm chung được vãng sinh vào cõi Phật, những người không phải là tín đồ Phật giáo sẽ không bị rơi vào cõi ác, tín đồ Phật giáo được vãng sinh về Tịnh độ.36
Ngoài ra còn có Hư Không Tạng Bồ-tát pháp, gọi tắt là Hư Không Tạng pháp.
Pháp tu thờ Bồ-tát Hư Không Tạng làm bản tôn. Pháp tu này xuất xứ từ bộ Đại hư không tạng Bồ-tát niệm tụng pháp do ngài Bất Không dịch. Nội dung gồm 3 pháp: phước đức, trí huệ, âm thanh. Nếu y vào pháp này tu hành thì tiêu trừ được nghiệp báo chướng, tăng trưởng phước đức, tâm thần an vui, có niềm tin thanh tịnh đối với Đại thừa, làm lợi lạc cho hữu tình, tâm không thoái chuyển, được mọi thứ của cải quý giá của thế gian và xuất thế gian.37
Công đức Hư Không Tạng Bồ-tát
Hư Không Tạng Bồ-tát kinh mô tả vị Bồ-tát này đến để đoạn trừ mọi chướng ngại, để soi sáng cho thế nhân thoát khỏi vòng vô minh lầm lẫn và dạy cho họ hành trì sáu ba-la-mật hay “lục độ"(paramita): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ.38
Trong Đại Phương đẳng Đại tập kinh, quyển 16, Phật-đà bảo với Tốc Biện Bồ-tát rằng: Hư Không Tạng Bồ-tát: “Ở giữa hư không, theo những điều chúng sinh cần mà ban phép hay ban của cải theo hết khả năng của mình, vì vậy khiến mọi người ai cũng đều yêu thích. Ngài còn nói trong quá khứ, vào lúc Phổ Quang Minh Vương Như Lai ra đời Hư Không Tạng Bồ-tát đã đến chỗ của con trai Chuyển luân Thánh vương tên là Sư Tử, cùng Sư Tử và các hoàng tử từ bỏ ngôi vua, xuất gia tu đạo. Sau đó nhờ sự hóa độ lòng kiêu mạn của Thánh vương nên hiện được phép thần biến vô lượng. “Từ hư không mưa xuống đủ vật tuyệt diệu, các loại châu báu như hương hoa, hương bột, hương thoa, lọng bằng lụa, cờ xí, tạo ra đủ loại nhạc trời, thức ăn ngon, chuỗi ngọc, quần áo đều rơi xuống không ngừng. Những cơn mưa báu vật như thế đã làm thỏa mãn tam thiên đại thiên thế giới, chúng sinh có được những thứ chưa bao giờ có, ai nấy đều vui mừng. Lúc đó, từ địa thần chư thiên lên đến A-già-nhị-tra đều hân hoan nhảy múa mà hát rằng: “Vị Đại Bồ-tát này có thể đặt tên là Hư Không Tạng, vì từ hư không có thể cho mưa châu báu vô lượng xuống khiến tất cả chúng sinh được sung túc”. Lúc ấy, Thế Tôn theo lời nói đó mà đặt tên là Hư Không Tạng”.
Kinh này cũng có chép: “Hư Không Tạng Bồ-tát là tên gọi chỉ tam-muội ý của tất cả chúng sinh, người đã dùng lực tam-muội này để cho mưa xuống từ giữa hư không của tam thiên đại thiên thế giới đủ vật tuyệt diệu, theo ước nguyện của chúng sinh mà ban cho họ đầy đủ mọi điều. Cần hoa sẽ mưa xuống hoa, cần hương, cần hương bột, cần hương thoa, cần lọng lụa cờ xí, cần các loại âm nhạc, cần chuỗi ngọc trang phục để làm tôn nghiêm thân mình, cần thức ăn ngon, cần xe cộ người hầu, cần vàng bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, trân châu, san hô… thì mưa sẽ theo đó mà rơi xuống. Có người cần pháp, muốn nghe pháp, vui với pháp thì từ hư không sẽ cho ra những âm thanh êm tai. Nếu ai cần những kinh như: khế kinh, bình đẳng kinh, đại giáo sắc pháp thì người đó sẽ được đáp ứng tất cả… Nhờ lực của Hư Không Tạng Bồ-tát nên từ không trung mưa xuống những diệu pháp và của cải như thế, khiến cho tất cả chúng sinh ở tam thiên đại thiên thế giới có được niềm vui vô lượng không thể nghĩ bàn, mọi ước nguyện đều được đầy đủ, chúng sinh đau đớn bệnh tật sẽ được thuyên giảm, chúng sinh nghèo khổ cô độc sẽ được châu báu vô lượng, chúng sinh bị xiềng xích bế tắc sẽ được khai ngộ giải thoát, người các căn không đủ sẽ được đầy đủ”.
Giáo vương kinh sớ, quyển 4 nói: Hư Không Tạng Đại Bồ-tát là chủ của tam-muội, tức vì hạnh tu của vị Bồ-tát này mà gọi là Tam-muội-da Hư Không Tạng Bồ-tát, tập hợp phúc đức vô lượng vô biên giống như hư không “tạng”, có ba nghĩa: có thể chứa đựng; là kho tàng; có thể sinh ra kho tàng. Tam-muội-da này bao hàm cả sự tập hợp phúc đức của thế gian và xuất thế gian, không gì chướng ngại. Vì vậy, Lý thú thích nói: Vị Bồ-tát này biểu thị cho sự tập hợp vô số công đức của cải của tất cả Như Lai, chúng sinh ít phúc không thể nào cảm được. Đại thánh từ bi thương xót cho chúng sinh hữu tình, mở kho tàng pháp giới, sinh ra Kim cang thất bảo vô lượng ban cho tất cả chúng sinh nên gọi là “có thể sinh ra kho tàng”.
Trong Hư Không Tạng Bồ-tát thần chú kinh, Phật-đà tán thán Hư Không Tạng Bồ-tát như sau: “Thiền định như biển, tịnh giới như núi, trí như hư không, tinh tấn như gió, nhẫn như kim cang, tuệ như hằng sa, là pháp khí của chư Phật, đôi mắt của chư thiên, người dẫn dắt chân chính của con người, nơi súc sinh nương tựa, nơi quỷ đói quy thuộc, pháp khí cứu vớt chúng sinh trong địa ngục, ứng nhận tất cả sự cúng dường tốt nhất của chúng sinh”39. Qua đó có thể thấy công đức thù thắng của vị Bồ-tát này.
Hư Không Tạng Bồ-tát kinh thuật rằng lúc Phật-đà ở núi Khư-la-để-sí, từ Tây phương, Hư Không Tạng Bồ-tát cùng 80 ức Bồ-tát đến thế giới Ta-bà, đồng thời dùng thần lực của mình biến thế giới Ta-bà thành Tịnh độ, khiến cho tất cả đại chúng hai tay đều có châu ma-ni như ý, châu phóng ra ánh sáng rộng lớn soi chiếu khắp cả thế giới, lại tấu lên nhạc trời, sinh ra vô số báu vật.
Qua ghi chép của các quyển kinh trên đây, ta không những thấy được nguyên nhân Hư Không Tạng Bồ-tát sở dĩ có tên như vậy và mối liên hệ mật thiết của Ngài với của cải mà còn thấy được ý nghĩa hình tượng của cải này vừa có thể ban cho chúng sinh đủ loại châu báu của cải, vừa tăng niềm vui.
A-sa-phọc sao dẫn Lý thú thích rằng: Người tu hạnh tam-ma-địa của Hư Không Tạng Bồ-tát nên lập mạn-đà-la của vị Bồ-tát này, ở trung tâm vẽ Hư Không Tạng Bồ-tát, trước mặt vẽ Kim cang bảo, bên phải vẽ Kim cang quang, bên trái vẽ Kim cang tràng, sau lưng vẽ Kim cang tiếu, trong ngoài bốn gốc cúng dường. Cửa Đông là chày kim cang, cửa Nam là vật báu, cửa Tây là hoa sen, cửa Bắc là chuông. Nếu người tu hành nhập vào mạn-đà-la này sẽ khiến cho người khác hiện sinh theo mong cầu tất cả phú quý, diệt trừ tất cả sự khốn cùng.
Ngoài ra, A-sa-phọc sao, quyển 300 cũng dẫn ra Đại Hư Không Tạng quỹ rằng: Người tại gia xuất gia mà ít phúc, ít đức, của cải thiếu thốn, các ước nguyện tốt đẹp của thế gian và xuất thế gian phần nhiều không được như ý, nếu tu hành theo giáo pháp này thì nghiệp báo và nghiệp chướng ắt sẽ được tiêu trừ, phúc đức tăng thêm, tâm ý vui vẻ, tin vào Đại thừa, lợi lạc hữu tình, tâm không thoái chuyển, có thể làm được điều có lợi cho chúng sinh. Mỗi xưng mỗi niệm đều đạt được phúc đức như hư không, huống gì tu trì theo pháp thì ắt những nguyện ước được thành tựu thù thắng. Do đó có thể thấy được sự hiệu nghiệm của Ngài trong pháp cầu của cải phú quý.40
Nói tóm lại, Hư Không Tạng là một vị Bồ-tát có công năng diệu dụng: có lòng đại từ đại bi, nguyện lực lớn, thành tâm cầu khẩn Ngài sẽ được giải thoát mọi khổ cực, được đáp ứng mọi điều ước nguyện, giải trừ các tội lỗi, tránh được các nạn tai, lúc lâm chung được vãng sinh về cõi Phật. Hư Không Tạng Bồ-tát chuyên chủ về trí tuệ, công đức, tiền tài, là vị tùy tùng phò tá hàng đầu của Tam thế Phật. Tu hành bản tôn pháp của Hư Không Tạng Bồ-tát có thể tránh xa mọi khổ nạn, tăng thêm trí nhớ, tiền tài dồi dào, gia đình hòa hợp.41
_____________
(1) Thích Minh Cảnh chủ biên. Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 4: H, I, K, KH, tr.3136-3137.
(2) Xem thêm: Visser, M. W. de (1931). The Bodhisattva Akasagarbha (Kokuzo) in China and Japan, Học hàn lâm khoa học hoàng gia Hà Lan.
(3) Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Thần Tài và hình tượng về của cải. NXB.Văn hóa Thông tin, tr.82-89.
(4) Thích Minh Nghiêm (2010). Thần Tài Mật tông, NXB.Thời Đại, tr.93-95.
(5) Thích Minh Tuệ (2012). Thần bản tôn. NXB.Hồng Đức, 216-221.
(6) Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Sđd.
(7) Thích Minh Nghiêm (2010). Sđd.
(8) Theo:
Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
Nghiệp Lộ Hoa, Trương Đức Bảo, Từ Hữu Vũ (2001). Trung Quốc Phật giáo đồ tượng giảng thuyết. NXB.TP.HCM, tr.88-90.
(9) Vũ Thỏa, Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu dịch (2011). 1000 vấn đề Mật tông. NXB.Thời Đại, tr.388-389.
(10) Abe, Ryūichi (1999). The Weaving of Mantra: Kūkai and the Construction of Esoteric Buddhist Discourse, Đại học Columbia xb, tr.74.
(11) Meher McArthur (2005). Tìm hiểu mỹ thuật Phật giáo. NXB.Mỹ Thuật, tr.63-64.
(12) Theo:
Louis Frederic (2005). Tranh tượng & thần phổ Phật giáo. NXB.Mỹ Thuật, tr.288-291.
Meher McArthur (2005). Sđd.
(13) Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
(14) Nghiệp Lộ Hoa, Trương Đức Bảo, Từ Hữu Vũ (2001). Sđd.
(15) Louis Frederic (2005). Sđd.
(16) Theo:
Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
Thích Minh Tông (2010). Phương pháp thờ Thần Tài Mật tông, NXB.Tôn Giáo, tr.170-171.
(17) Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Sđd.
(18) Meher McArthur (2005). Sđd.
(19) Louis Frederic (2005). Sđd.
(20) Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
(21) Nghiệp Lộ Hoa, Trương Đức Bảo, Từ Hữu Vũ (2001). Sđd.
(22) Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Sđd.
(23) Theo:
Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, tr.3136-3137.
Thích Minh Nghiêm (2010). Sđd.
(24) Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Sđd.
(25) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, tr.3138.
(26) Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Sđd.
(27) Theo:
Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, tr.3136-3137.
Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
(28) Theo:
Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, tr.3136-3137.
Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
(29) Louis Frederic (2005). Sđd.
(30) Thích Minh Tông (2010). Sđd.
(31) Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Sđd.
(32) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, tr. 3137.
(33) French, Frank G.; Shih, Tao-tsi; Śikṣānanda (2003). The Sutra of Bodhisattva Ksitigarbha’s Fundamental Vows. Cơ quan tổ chức Quỹ Giáo dục Đức Phật, tr.89-93.
(34) Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
(35) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, tr.3137.
(36) Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
(37) Thích Minh Cảnh chủ biên. Sđd, tr.3137.
(38) Theo:
Louis Frederic (2005). Sđd.
Meher McArthur (2005). Sđd.
(39) Theo:
Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Sđd.
Vũ Thỏa, Nguyên Ninh Cống Bố, Sen Thu dịch (2011). Sđd.
(40) Nguyễn Kim Dân biên dịch (2011). Sđd.
(41) Thích Minh Tuệ (2012). Sđd.
NS337.