Viêm cơ tim là tình trạng viêm của cơ tim, nhẹ thì đau ngực trái, khó thở; nặng dẫn đến suy tim, đột quỵ thậm chí đột tử.
Phó giáo sư, bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu, Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, cho biết bệnh viêm cơ tim là tình trạng viêm của cơ tim. Y văn thế giới ghi nhận bệnh viêm cơ tim được phát hiện từ năm 1600. Bệnh gây ra cái chết cho 294.000 người năm 1990, khoảng 354.000 người năm 2015.
Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhiều hơn ở người trẻ 20-40 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Viêm cơ tim ảnh hưởng đến cơ tim và các hoạt động của tim, làm giảm khả năng bơm máu của tim và là nguyên nhân khiến nhịp tim nhanh hoặc rối loạn nhịp tim.
Viêm cơ tim nặng dẫn đến suy tim, không bơm đủ máu đến các phần còn lại của cơ thể. Các cục máu đông có thể hình thành trong tim gây đột quỵ hoặc đột tử.
Nếu viêm cơ tim nhẹ hoặc đang ở giai đoạn đầu, có thể không có triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ, chẳng hạn như đau ngực trái nhẹ hoặc khó thở khi gắng sức. Trường hợp nặng, các dấu hiệu và triệu chứng thường gặp bao gồm: đau ngực, nhịp tim nhanh hoặc rối loạn nhịp tim, khó thở lúc nghỉ ngơi hoặc khi vận động. Các triệu chứng khác còn có phù chân, mắt cá chân và bàn chân; mệt mỏi. Các dấu hiệu và triệu chứng khác sẽ tùy theo nguyên nhân gây ra viêm cơ tim.
Theo bác sĩ Lân Hiếu, để chẩn đoán bệnh, bên cạnh biểu hiện lâm sàng, bác sĩ cần dựa thêm vào một số bằng chứng cận lâm sàng như công thức máu, test sàng lọc cúm, men tim, điện tim, test kháng thể với virus; chụp MRI tim. Ngoài ra, sinh thiết cơ tim là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán viêm cơ tim, thường được thực hiện khi chụp mạch can thiệp. Siêu âm tim cũng đóng vai trò quan trọng để loại trừ nguyên nhân viêm cơ tim với các nguyên nhân khác như bệnh van tim.
Viêm cơ tim gây nhiều biến chứng nặng.
Thông thường, nguyên nhân gây viêm cơ tim khó xác định được, bao gồm:
- Virus: Nhiều loại virus liên quan đến viêm cơ tim, bao gồm virus gây cảm cúm thông thường (adenovirus); viêm gan B và C; parvovirus (gây phát ban nhẹ, thường ở trẻ em) và virus herpes. Nhiễm trùng đường tiêu hóa (do echoviruses), tăng bạch cầu đơn nhân (do virus Epstein-Barr) và Rubella cũng có thể gây viêm cơ tim. Đặc biệt, bệnh thường gặp ở những người nhiễm HIV khi hệ miễn dịch bị suy sụp.
- Vi khuẩn: Rất nhiều loại vi khuẩn có thể gây viêm cơ tim, bao gồm tụ cầu (staphylococcus), liên cầu (streptococcus), trực khuẩn gây bệnh bạch hầu.
- Ký sinh trùng: Những ký sinh trùng như Trypanosoma cruzi và toxoplasma, bao gồm một số loài truyền qua côn trùng và có thể gây ra bệnh "Chagas". Bệnh này phổ biến ở Trung và Nam Mỹ so với Mỹ, có thể xảy ra ở khách du lịch và người nhập cư.
- Nấm: Nhiễm trùng vi nấm như Candida, Aspergillus. Các loại nấm khác như Histoplasma tìm thấy trong phân chim, đôi khi có thể gây viêm cơ tim, đặc biệt ở những người có hệ miễn dịch yếu.
- Thuốc: Phản ứng dị ứng hoặc độc hại. Bao gồm các loại thuốc được sử dụng để điều trị ung thư; thuốc kháng sinh (như penicillin và sulfonamid); một số loại thuốc chống động kinh và chất cấm như cocaine.
- Hóa chất hoặc chất phóng xạ: Tiếp xúc với một số hóa chất, chẳng hạn carbon monoxide, và bức xạ đôi khi có thể gây viêm cơ tim.
- Những bệnh khác như lupus, u hạt Wegener, viêm động mạch tế bào khổng lồ và viêm động mạch Takayasu.
Biến chứng của viêm cơ tim có thể từ nặng đến nhẹ. Ở thể nặng, nó có thể làm tổn thương cơ tim vĩnh viễn, gây suy tim, nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ, nhịp tim nhanh hoặc rối loạn nhịp tim, đột tử do tim. Ở người trẻ tuổi, bệnh viêm cơ tim chiếm tới 20% nguyên nhân gây đột tử.
Theo bác sĩ Lân Hiếu, phác đồ điều trị viêm cơ tim tùy theo nguyên nhân. Trường hợp nhiễm virus, điều trị triệu chứng là biện pháp chủ yếu cho hầu hết dạng viêm cơ tim. Giai đoạn cấp tính, liệu pháp hỗ trợ là chính.
Trường hợp do thuốc, nếu bệnh nhân có triệu chứng suy tim sẽ sử dụng digoxin và thuốc lợi tiểu. Đối với những người bị rối loạn chức năng tim từ trung bình đến nặng, sử dụng các thuốc tăng co bóp như milrinone trong giai đoạn cấp tính, sau đó điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển khi dung nạp.
Người suy tim nặng không đáp ứng với liệu pháp thông thường có thể được chỉ định hỗ trợ chức năng tim bằng thiết bị màng trao đổi oxy ngoài cơ thể (ECMO) hoặc ghép tim cho những người không cải thiện chức năng tim bằng liệu pháp ECMO.
Không có phòng ngừa đặc hiệu cho viêm cơ tim, song có thể ngăn ngừa bệnh viêm cơ tim bằng cách thực hiện vệ sinh tốt. Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng. Tránh những hành vi nguy cơ cao để giảm khả năng bị nhiễm trùng cơ tim liên quan đến HIV, tình dục an toàn và không sử dụng ma túy bất hợp pháp. Giảm tiếp xúc với côn trùng. Tiêm vắcxin phòng bệnh, bao gồm vắcxin rubella và cúm - những bệnh có thể gây viêm cơ tim. Hạn chế tiếp xúc với người bệnh giống như virus hoặc cúm cho đến khi họ bình phục, đặc biệt những người suy giảm miễn dịch, có bệnh lý mạn tính.
Đến cơ sở y tế thăm khám nếu bạn có triệu chứng đau ngực và khó thở khi đang nhiễm trùng hoặc nhiễm virus.
Lê Nga
(VnExpress)