GN - Borobudur là một ngôi bảo tháp hùng vĩ, một kỳ quan tinh xảo và lớn nhất của Phật giáo trên thế giới. Bảo tháp Borobudur tọa lạc cách 42km về phía Bắc thành phố Yogyakarta, trung tâm của đảo Java, quốc gia Indonesia, và đã được UNESCO xếp hạng Di sản thế giới vào năm 1991.
Một góc Borobudur
“Borobudur”, trong tiếng Indonesia, có nghĩa là “Tháp Phật trên đồi cao”. Ngôi tháp được xây dựng trên ngọn đồi cao 27 mét, với mặt bằng hình vuông rộng 2.500m². Nhìn từ trên cao, Borobudur có hình ảnh của một mạn-đà-la, tức sơ đồ vũ trụ theo Phật giáo Tây tạng. Nền tháp là một đài hình vuông có cạnh 123m.
Ngôi tháp cao 32m, có 4 cửa và 9 tầng. Các tầng to, nhỏ, vuông, tròn xen kẽ, kế tiếp nhau. Tầng thứ nhất là những tháp hình tứ giác với những hình tượng Phật và Bồ-tát, đặc biệt là chuỗi hình ảnh ghi lại toàn bộ lịch sử cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tầng thứ hai, chạm trổ những chuyện tiền thân của Phật Thích Ca được mô tả trong Jataka. Tầng thứ ba, bốn và năm trình bày hình ảnh của các vị Bồ-tát như Quan Âm, Địa Tạng, đặc biệt là chuyện tích Thiện Tài đồng tử gặp Bồ-tát Di Lặc được diễn tả trong kinh Hoa nghiêm. Và bốn tầng tháp còn lại phía trên là phần tháp hình quả chuông. Trong mỗi tháp đều có tôn trí hình tượng Phật. Toàn bộ 1.600.000 phiến đá lớn nhỏ của Borobudur được điêu khắc, chạm trổ một cách tinh tế, sắc sảo và đẹp đẽ, tạo nên một vẻ đẹp hùng tráng cho Borobudur.
Ban đầu, Borobudur có 602 pho tượng Phật, nhưng một số đã bị mất cắp, ngày nay chỉ còn lại 504 pho tượng Phật, một số bị lấy mất phần đầu. Bảo tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ VII và VIII Tây lịch. Theo các nhà khảo cổ thì để xây dựng hoàn thành công trình vĩ đại này phải mất 100 năm.
Nguồn gốc của tháp Borobudur đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Có ý kiến cho rằng, tháp Borobudur bắt nguồn từ Campuchia. Đó là vào đầu thế kỷ thứ VIII, Hoàng triều Sanjaya theo Ấn Độ giáo và thờ thần Shiva, đóng đô ở vùng Bắc trung tâm đảo Java. Một hoàng thân người Campuchia được hoàng triều này che chở, nhưng sau đó ông trở về Campuchia vào năm 802 và lên ngôi vua. Có thể chính ông đã đem theo về nước dự án đầu tiên của Borobudur, vì người ta tìm thấy trên đất Campuchia một ngôi đền nhỏ xây bằng gạch hình tháp tương tự với mô hình của Borobudur.
“Tháp Phật trên đồi cao”
Năm 850 có thể xem là năm hoàn thành của ngôi tháp này. Nhưng vào khoảng đầu thế kỷ XIII, những người thương gia Ả Rập đã đưa Hồi giáo vào Indonesia. Chỉ trong vòng hai trăm năm, cả quần đảo Indonesia gần như hoàn toàn bị Hồi giáo hóa. Borobudur trở nên hoang tàn.
Bảo tháp Borobudur được khám phá vào năm 1814 do công của Toàn quyền Anh quốc tại Indonesia, ông Thomas Stanford Raffles. Lúc bấy giờ, ngôi bảo tháp đang trong tình trạng bị đổ nát và chôn vùi dưới một vùng cây cối um tùm. Người ta tin rằng, bảo tháp đã bị mất tích sau cơn núi lửa xảy ra tại vùng này vào thế kỷ thứ XIV. Sau đó, Toàn quyền Raffles đã cho dân làng khai quật và mọi người đều sửng sốt trước một ngôi vườn tháp của Java vĩ đại như thế mà bấy lâu nay họ không hề hay biết. Tuy nhiên, nhiều năm sau đó, chính quyền vẫn chưa đầu tư nhiều cho việc trùng tu, bảo tồn Borobudur.
Mãi đến sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc (năm 1945), Indonesia mới ý thức được tầm quan trọng của Borobudur, liền mời nhiều nhà khảo cổ trên thế giới đến nghiên cứu, đồng thời yêu cầu UNESCO giúp sức để trùng tu. Một chương trình cấp thời vào năm 1948 do Liên Hiệp Quốc đưa ra đã giúp cho Borobudur thoát khỏi cảnh hoang tàn và quên lãng. Tiếp theo là một chương trình trùng tu với quy mô lớn, kéo dài từ 1973 đến 1982 do UNESCO đảm trách, với sự hợp tác của 27 quốc gia trên thế giới, đã phục hồi Borobudur. Chương trình trùng tu hết 25 triệu đô-la.
Nhìn từ xa, ngôi đền giống như một ngọn đồi hay một kim tự tháp với nhiều tượng Phật và bảo tháp, công trình được xây dựng và tạc bằng một loại đá núi lửa màu xám khai thác trên đảo Java.
Borobudur - Hùng vĩ và linh thiêng
Kiến trúc tổng quát của ngôi đền có thể chia làm ba phần từ thấp lên cao, tượng trưng cho ba cảnh giới ở cõi Ta-bà: phần thấp nhất là Dục giới, phô bày những cảnh tượng của thế giới tham dục, gồm đủ loại chúng sinh như quỷ đói, súc sinh, loài người, các cảnh tượng tham lam, những xung lực thấp kém, tham dục và hận thù; phần tiếp theo là Sắc giới, gồm những bậc thánh nhân, và sau hết là các thiên thần thuộc Vô sắc giới. Đối với các tín đồ Phật giáo dưới vương triều Sailendra, thì Borobudur là đại diện cho Phật giáo thực nghiệm. Họ có thể dễ dàng hình dung quá trình tu luyện của bản thân qua kiến trúc của ngôi tháp.
Đến viếng Borobudur, khách hành hương bắt đầu tiến vào từ cổng phía Đông, đi theo chiều kim đồng hồ, mỗi tầng đều có bậc thang để leo lên tầng cao hơn, hết tầng này đến tầng khác.
Ngày nay, Borobudur là thắng cảnh thu hút nhiều khách du lịch nhất tại Indonesia. Borobudur không chỉ là một kỳ quan đáng ngưỡng mộ của Indonesia mà còn là công trình nghệ thuật kiến trúc vĩ đại và vô cùng giá trị của Phật giáo thế giới và của cả nhân loại.
Nhiều nhà khảo cổ học và sử học tin rằng, ngôi bảo tháp vĩ đại này được xây dựng bởi vua Sailendras như để biểu dương sức mạnh chính trị của mình. Cũng có ý kiến cho rằng Borobudur chỉ là sản phẩm của những vị vua Phật giáo chuyên chế, tự nhận mình là những vị Bồ-tát đã thực hiện công trình vĩ đại này để vinh danh Phật giáo và cũng là để tôn vinh chính mình. Cho dù mục đích của người tạo dựng ra nó là gì, Borobudur vẫn là Borobudur như thuở nào mà người Phật tử Indonesia thường gọi để nói lên niềm tự hào của mình.
Minh Nguyên