Hòa thượng Minh Dung Thành Chí Pháp Thông (1691-1749)

Cuối quyển 6 kinh Pháp Hoa
Cuối quyển 6 kinh Pháp Hoa
NSGN - Thiền sư Minh Dung Pháp Thông là một trong số những vị đệ tử đắc pháp của Hòa thượng Nguyên Thiều Thọ Tông (1648-1728).

Ngài nối pháp đời thứ 34 thuộc dòng Lâm Tế chính tông, cùng thế hệ với các Thiền sư Minh Trí Thiện An (1679-1741), Minh Giác Kỳ Phương (1682-1744), Minh Lượng Nguyệt Ân (1680-1769), Minh Hằng Định Nhiên, Minh Vật Nhất Tri… Sử liệu ghi chép về ngài hiện còn được biết qua các bài vị thờ tại chùa Quốc Ân, Thập Tháp, Liên Tôn, Bửu Phong (Biên Hoà), cùng các kinh sách do ngài khắc ván, hoặc được mời chứng minh. Chính pháp nhãn tạng (còn gọi là Pháp quyển) được tìm thấy tại Phú Yên, giúp cho việc nghiên cứu truyền thừa tông Lâm Tế phái Nguyên Thiều Siêu Bạch. Trên những cơ sở đó, bài viết còn tham khảo một số tư liệu Hán Nôm Phật giáo khác, nhằm giới thiệu sơ lược về Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông. Sử liệu đưa lại không nhiều, việc luận giải cũng như phác họa hành trạng Hòa thượng Minh Dung sẽ ở mức độ cấp sơ khảo, luôn bám vào tư liệu gốc để bàn luận, khó mà thấu hiểu tiểu sử Hòa thượng như lối viết hành trạng chư tôn đức hiện nay. Chắc rằng sẽ còn nhiều hạn chế, người viết chỉ mong sao góp vào một ít sự tìm hiểu về cuộc đời và đạo nghiệp của Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông, cũng như hiểu biết thêm về tình hình Phật giáo Đàng Trong thế kỷ XVIII.

Liên toạ tại chùa Liên Tôn, Quảng Ngãi
Liên toạ tại chùa Liên Tôn, Quảng Ngãi

Liên tọa thờ Thiền sư Minh Dung Thành Chí Pháp Thông (1691-1749) tại chùa Liên Tôn, Quảng Ngãi

Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông sinh tiền đi lại giáo hoá nhiều nơi, nên hiện nay ngài được các tổ đình, các chùa ở miền Trung và miền Nam phụng thờ. Theo khảo sát của chúng tôi, hiện có chùa Quốc Ân (Huế), Liên Tôn (Quảng Ngãi), Thập Tháp (Bình Định), Bửu Phong (Biên Hòa) có bài vị hoặc liên tọa phụng thờ tại gian giữa Tổ đường. Trong 4 bài vị trên, chú ý đến liên tọa thờ tại chùa Liên Tôn nằm về thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một tư liệu quý, có niên đại khá xưa, là nguồn sử liệu cần thiết khi tìm hiểu về Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông.

Liên tọa được chế tác bằng gỗ, phủ sơn, kiểu dáng như một khung thờ. Đường khung viền, trang trí chữ T liên hồi. Lòng văn khắc 3 hàng chữ Hán. Hàng giữa được khắc chữ Hán lớn, lối chữ Khải rõ đẹp. Hai bên khắc hai hàng chữ Hán nhỏ, kiểu lạc khoản năm sinh, năm tịch, được hạ khoản ngang với chữ “Đường"của hàng giữa. Hàng bên phải, phía dưới khắc thêm thông tin người lập liên tọa. Sau đây, xin cung lục phần chữ Hán:

勅賜皇龍堂上嗣臨濟三十四世,諱明融成志法通和上覺靈蓮座。

辛未年七月二十日辰時來。

己巳年八月十一日戌時去。門人實鑑孫侄等奉祀。

Dịch nghĩa:

Tòa sen Giác linh Hòa thượng húy Minh Dung, Thành Chí, [hiệu] Pháp Thông đời 34 phái Lâm Tế, pháp đường chùa Sắc tứ Hoàng Long.

Sinh giờ Thìn ngày 20 tháng 7 năm Tân Mùi,

Mất giờ Tuất ngày 11 tháng 8 năm Kỷ Tỵ. Môn nhân là Thiệt [Thật] Giám cùng pháp tôn, pháp điệt phụng thờ.

Liên tọa được lập khi nào? Đó là câu hỏi cần được giải đáp, nhằm xác định đây là tư liệu gốc, để nghiên cứu về Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông. Liên tọa có kiểu thức trang trí ở đường viền khung, chạm chữ T liên hồi thường xuất hiện trên các đồ án thuộc thế kỷ XVIII, XIX. Hàng giữa dùng từ “Hòa thượng" được ghi bằng hai chữ Hán là 和上. Thông thường chữ Hòa thượng viết thành chữ Hán là 和尚, chỉ cho vị Tăng có đạo hạnh. Xét bia tháp Tổ Nguyên Thiều (1729), sách Hải ngoại kỷ sự của Hòa thượng Thạch Liêm đều viết chữ Hòa thượng 和上. Vị đệ tử ngài là Thiệt Giám (實鑑 đọc đúng âm là Thật Giám), vốn là vị trụ trì chùa Liên Tôn, Quảng Ngãi. Theo bài vị thờ tại tổ đường chùa Phước Quang, Quảng Ngãi thì Thiệt Giám là tên húy của Hòa thượng Trí Quang. Ngài thuộc đời 35 phái Lâm Tế. Căn cứ bản in Di Đà kinh sớ sao khắc năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), thì ngài Trí Quang là người viết cho bài bạt cuối sách. Từ các cứ liệu trên, xác định niên đại của liên tọa lập khoảng giữa hoặc hạ bán thế kỷ XVIII.

Chùa Thập Tháp có bài vị phụng thờ ngài, có cả lạc khoản năm sinh, năm tịch như liên tọa tại chùa Liên Tôn. Chúng tôi so sánh hai tư liệu thì nhận ra có vài sai khác. Thứ nhất, hàng chữ giữa liên tọa chùa Liên Tôn đưa ngôi chùa lên trên cùng tức “Sắc tứ Hoàng Long đường thượng”, trong khi bài vị chùa Thập Tháp lại đưa sau “Tự Lâm Tế chính tông" và chỉ ghi tên chùa là Hoàng Long, chứ không thấy ghi chữ “Sắc tứ" như khung thờ tại chùa Liên Tôn. Thứ hai, niên đại năm sinh thì bài vị chùa Thập Tháp đề “giờ Mão ngày 22" trong khi đó liên tọa chùa Liên Tôn ghi “giờ Thìn ngày 20”, chưa rõ chỗ nào ghi đúng. Thứ ba, liên tọa chùa Liên Tôn ghi người lập là “môn nhân Thiệt Giám…" còn các nơi đều không khắc. Riêng tên húy và đạo hiệu, chúng tôi bàn luận phía sau. Điều đặc biệt, liên tọa do chính môn đồ lập, có niên đại xưa nên chúng tôi chọn liên tọa chùa Liên Tôn giới thiệu và là sử liệu gốc để nghiên cứu niên đại Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông.

Nhờ tiếp cận bản in Diệu Pháp Liên Hoa kinh khắc ván năm Giáp Dần (1734) Long Đức thứ 3; Nhân quả thực lục khắc bản năm Long Đức thứ 5 (1736)1 mà ngài tham gia hoặc ấn khả, giúp chúng ta có cơ sở để đổi niên đại năm sinh, năm tịch một cách chính xác. Ngài sinh năm Tân Mùi tức năm 1691 và tịch năm Kỷ Tỵ tức năm 1749, suy ra thọ thế 59 tuổi. Xét về mặt thế gian, 59 tuổi chưa được ghi thành hưởng thọ, mà đề là hưởng dương hoặc hưởng linh. Nhiều vị thấy ngài thọ ít nên đề xuất năm Tân Mùi là năm 1631, nhưng điều đó khó chấp nhận thỏa đáng.

Khảo về tên húy và đạo hiệu của Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông

Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông cũng như một số vị đệ tử của Hòa thượng Nguyên Thiều đều có hai tên húy theo hai kệ phái: Tổ Định Tuyết Phong và Đạo Mân Mộc Trần. Bài vị tổ đình Quốc Ân ghi ngài “húy Thành Chí thượng Pháp hạ Thông" tức ghi theo kệ phái Đạo Mân Mộc Trần2. Trong khi đó, bài vị tại tổ đình Thập Tháp thì ghi ngài “húy Minh Dung”, mà tên húy nằm sau đạo hiệu “thượng Pháp hạ Thông”, tức ghi tên húy theo kệ phái Tổ Định Tuyết Phong, đều thuộc Thiền Đồng pháp phái. Khung thờ tại chùa Liên Tôn thì ghi luôn hai tên “húy Minh Dung Thành Chí”, tức gộp chung cả hai tên húy. Đây là cách ghi khác lạ nhất mà ít thấy chỗ nào ghi rõ như khung thờ chùa Liên Tôn.

Tại bài vị tổ đình Quốc Ân, chúng tôi xem kỹ chữ “Chí志" trong tên húy Thành Chí có lối khắc khác lạ. Tức phần trên giống chữ Thiên 千 nối với phần dưới bộ Tâm心. Pháp quyển do Hòa thượng Tế Khoan Thiên Quyền ban cho đệ tử Liễu Giáo Mật Hóa năm Tân Mùi (1811) cũng ghi kiểu chữ như vậy và pháp quyển ghi hai tên húy “Minh Dung Thành Chí" sau đạo hiệu “Pháp Thông”3. Do vậy mà ngài Mật Thể trong Việt Nam Phật giáo sử lược đọc nhầm ra là “Thành Thiên Pháp Thông”4, tức ngài tham khảo bài vị thờ tại chùa Quốc Ân, Huế.

Chùa Phật Quang, Phan Thiết, nơi lưu giữ mộc bản Diệu pháp liên hoa kinh. Bộ mộc bản được khắc xong vào năm Long Đức 3 (1734) dưới sự ấn khả của khất sĩ Minh Dung Pháp Thông, tức ngôi chùa có quan hệ đến ngài. Tổ đường chùa Phật Quang có thờ nhiều long vị, bài vị chư Tổ. Đáng chú ý nhất là bài vị giữa lớn với hàng chữ Hán đề:

臨濟正宗三十四世,諱海融上善下通和尚覺靈之位。

Dịch nghĩa:

Bài vị Giác linh Hòa thượng húy Hải Dung [hiệu] Thiện Thông đời 34 Lâm Tế chính tông.

Đây là bài vị của Hòa thượng Hải Dung Thiện Thông đời 34 Lâm Tế chính tông. Xét tên húy Hải Dung, chúng tôi cho ngài thuộc kệ phái Trí Bản Đột Không với câu kệ “Chân như tính hải…”. Ngài là vị Tổ có đời pháp lớn nhất tại chùa Phật Quang hiện nay. Vậy, ngài đệ tử ai? Có liên quan gì đến Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông chăng?

Xét ra Hải Dung Thiện Thông và Minh Dung Pháp Thông, hai chữ cuối ở pháp danh và đạo hiệu như nhau, chỉ sai khác chữ trong hai kệ. Một tia sáng lé lên khi chúng tôi tham chiếu tấm bia tháp của Hòa thượng Minh Trí Thiện An (1679-1741) chùa Tây Thiền, Huế. Trích xuất văn bia:

Thiếu tuế xuất gia đầu vu Thập Tháp Di Đà tự lễ Nguyên ông thế độ, pháp danh Hải Trinh tự Thiện An.

少歲出家投于十塔弥陀寺禮源翁5剃度,法名海禎字善安".6

Dịch nghĩa: Tuổi nhỏ xuất gia tại chùa Thập Tháp Di Đà lễ ngài Đạo Nguyên thế độ, được ban pháp danh Hải Trinh, tự là Thiện An.

Điều đó cho thấy, ngài Minh Trí Thiện An sơ tâm xuất gia với Hòa thượng Đạo Nguyên Tánh Đề (chùa Thập Tháp), được ban pháp danh Hải Trinh tự Thiện An. Sau đó, ngài ra Thuận Đô cầu pháp với Hòa thượng Nguyên Thiều Thọ Tông chùa Quốc Ân được dịch danh là Minh Trí, theo kệ phái Tổ Định Tuyết Phong. Ngài là vị đệ tử đắc pháp với Hòa thượng Nguyên Thiều.

Từ Hòa thượng Hải Trinh Thiện An, chúng ta so sánh với tên húy và đạo hiệu ở bài vị thờ ngài Hải Dung Thiện Thông tại chùa Phật Quang, nhận ra hai vị có cùng chữ Hải trong kệ phái Đột Không Trí Bản và cùng chữ đầu ở đạo hiệu. Đối chiếu tên pháp danh và pháp hiệu, chúng tôi cho rằng, ngài Hải Dung Thiện Thông vốn là đệ tử của Hòa thượng Đạo Nguyên Tánh Đề, chùa Thập Tháp và huynh đệ với Hòa thượng Hải Trinh Thiện An, tức Minh Trí Thiện An.

Từ bia tháp ngài Minh Trí Thiện An, giúp chúng ta biết, trong số môn nhân của Tổ sư Nguyên Thiều, nếu xuất gia tại chùa Thập Tháp thì đều là đệ tử sơ tâm của Hòa thượng Đạo Nguyên Tánh Đề. Sau đó, quý ngài ra Quốc Ân cầu pháp với Hòa thượng Nguyên Thiều và trở thành đệ tử đắc pháp. Xưa, Thiền tông chú trọng đắc pháp hơn là đệ tử thế độ. Do vậy, ngài Minh Trí Thiện An mới thuộc môn phái tổ đình Quốc Ân, thuộc Thiên Đồng pháp phái. Ở ngài Hải Dung Thiện Thông, chúng tôi cho rằng ngài cũng chính là Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông. Lúc đầu, ngài xuất gia với Hòa thượng Đạo Nguyên Tánh Đề được ban pháp danh Hải Dung, hiệu Thiện Thông. Khi bổn sư viên tịch, ngài ra Thuận Hoá cầu pháp với Hòa thượng Nguyên Thiều và được ban pháp danh Minh Dung, và thêm pháp danh nữa là Thành Chí, đổi sang pháp hiệu là Pháp Thông.

Một cứ liệu khác giúp ta đồng nhất là việc tìm được bản in Long thư tịnh độ văn khắc ván năm Bính Dần (1746), Cảnh Hưng thứ 6. Bản in do ngài Thiệt Uyên Trí Bảo chùa Hội Nguyên (Hội An) đứng ra tổ chức trùng san7. Sau quyển hạ, tờ đầu mặt trước của tờ phương danh, ngài đứng vị trí thứ 2, sau Hòa thượng Pháp Bảo chùa Chúc Thánh. Sách ghi: “Hoàng Long tự thượng Thiện hạ Thông Hòa thượng 黄龍寺上善下通和尚”. Chữ Hoàng黄黄 trong bản in khác với chữ Hoàng 皇 trong các bài vị thờ. Sách ghi phương danh nên tên chùa, chữ Hoàng vốn ghi là 皇 khắc thành chữ 黄 hoặc hai chữ thông nhau. Hòa thượng Thiện Thông tức ngài Hải Dung Thiện Thông trong bài vị thờ tại chùa Phật Quang, mà ngài trụ trì chùa Hoàng Long, như các bài vị thờ ngài Minh Dung Pháp Thông ghi “Hoàng Long đường thượng”. Nối kết các tư liệu xác nhận ngài Minh Dung Pháp Thông chính là Hòa thượng Hải Dung Thiện Thông.

Bài vị thờ tại chùa Phật Quang ghi ngài theo kệ phái Trí Bản Đột Không, nhưng vẫn để thuộc đời 34 Lâm Tế chính tông. Xét kệ phái Trí Bản Đột Không thì chữ “Hải"thuộc đời 36 phái Lâm Tế8. Mộc bản Diệu pháp liên hoa kinh khắc năm 1734, ghi ngài Minh Dung Pháp Thông, nhưng khi truyền pháp tại các chùa thuộc phủ Bình Thuận, ngài cho đệ tử theo kệ phái Trí Bản Đột Không. Tại tổ đường chùa Phật Quang có bài vị của ngài Tịch Niệm Kim Tiên, Chiếu Trí Quang Thuận đều theo kệ phái Trí Bản Đột Không. Đó là những vị trong tông môn ngài Hải Dung Thiện Thông.

Dấu ấn Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông qua mộc bản và kinh sách

Hiện nay, chùa Phật Quang còn bảo tồn 118 tấm mộc bản Diệu pháp liên hoa kinh. Riêng Thư viện Huệ Quang lại giữ bản in đầy đủ 7 quyển của bộ mộc bản trên. Diệu pháp liên hoa kinh may mắn còn cả ván và bản in giấy cũ. Điều đó giúp ích cho chúng ta nghiên cứu về quá trình lưu truyền của bản kinh. Chúng tôi tiếp cận được bản in kinh tại Thư viện Huệ Quang. Kiểm tra các quyển có kẻ khung khắc phương danh công đức. Cuối quyển 6, sau bài tán kinh có ghi thông tin như sau:

Long Đức tam niên tuế thứ Giáp Dần tứ nguyệt sơ nhất nhật. Khất sĩ Minh Dung Pháp Thông ấn khả lâu chi9. Phật tổ nguyên lưu Lâm Tế chính tông viễn tôn Thiệt Huệ Khánh Tài mộc bái thủ san Đại Thừa Diệu pháp liên hoa kinh toàn bộ thất quyển. Nguyện tương thử phúc dụng thù Phật tổ thiên địa chi ân, kính đáp quân thân sư hữu đức chi đức. Kính chúc: Thánh thọ vô cương, trừ quân phỉ khánh, văn vũ quan liêu cao tăng lộc vị, thiên hạ thái bình, dân an vật phụ.

Kinh tiên Thiệt Sát Bảo Hương Đại sư hoằng duyên hội thủ bản mộc mễ thực tĩnh thất. Mai Bá Phao pháp danh Chiếu Bổn, Nguyễn Thị Chèo pháp danh Chiếu Thạnh, Nguyễn Thị Man pháp danh Tịch Quý, Nguyễn Thị Lan pháp danh Chiếu Căn, Mai Thị Nguyễn pháp danh Chiếu Viễn, Nguyễn Thị Liên pháp danh Chiếu Hoa. Kinh chủ…

Tự thập thiện nam tín nữ đại tiểu đẳng cộng chủng lương nhân, kỳ tăng phúc tuệ. Hiện tiền ngũ phúc lâm thân, một hậu cửu liên thát chất. Cánh dực: tiên vong thất tổ cửu huyền tùng thử lương nhân, đồng sinh Tịnh độ. Pháp giới hữu tình đồng viên chủng trí. Cẩn sớ”.

龍德三年歲次甲寅四月初一日,乞士明融法通印可10𠞭之。佛祖源流臨濟正宗遠孫實僡慶才沐拜手刊大乘妙法蓮華經全部七卷。願將此福用酬佛祖,天地之恩,敬荅君親師友德之德。敬祝聖壽無彊,儲君丕慶文武官僚高增禄位,天下太平民康物阜。

經先實察寳香大師弘緣會首板木米食靖室。枚伯拋法名照本,阮文[扌朝]法名照盛,阮文茫法名寂貴,阮氏蘭法名照根,枚氏[阮个]法名照遠,阮氏連法名照花。經主

洎合善男信女大小等共種良因,祈增福慧現前五福臨身,没後九蓮托質。更翼先亡七祖九玄仗此良因同生淨土,法界有情同圓種智。謹疏。

Dịch nghĩa:

Ngày mùng 1 tháng 4 năm Giáp Dần (1734) Long Đức thứ 3, khất sĩ là Minh Dung Pháp Thông chứng minh khắc kinh. Cháu xa là Thiệt Huệ Khánh Tài thuộc dòng Lâm Tế chính tông, Phật tổ nguyên lưu tự mình san khắc toàn bộ 7 quyển Diệu pháp liên hoa kinh. Mong đem phúc này để trả ơn Phật Tổ, kinh đáp cái đức của quân vương, song thân, thầy bạn. Kính chúc Thánh thọ lâu dài, hoàng tử an vui, văn võ quan liêu mau thăng chức lộc, thiên hạ thái bình, dân an vật thịnh.

Kinh này trước có Đại sư Thiệt Sát Bảo Hương rộng duyên làm Hội thủ, lo ván khắc, cơm gạo, tĩnh thất. Mai Bá Phao pháp danh Chiếu Bổn, Nguyễn Văn Chèo pháp danh Chiếu Thạnh, Nguyễn Văn Man pháp danh Tịch Quý, Nguyễn Thị Lan pháp danh Chiếu Căn, Mai Thị Ngọn pháp danh Chiếu Viễn, Nguyễn Thị Liên pháp danh Chiếu Hoa. Kinh chủ...

Cơ hồ tất cả thiện nam tín nữ lớn nhỏ cùng trồng nhân lành, cầu tăng được phước huệ, hiện sống ngũ phúc đến thân, khi mất thác sinh chín phẩm sen vàng. Lại cứu những bậc mất trước thất tổ cửu huyền dựa vào nhân lành cùng sinh Tịnh độ, pháp giới hữu tình, cùng tròn vẹn được giống trí. Kính cẩn bái bạch.

Ván khắc bộ kinh hoàn thành năm Long Đức thứ 3 (1734) dưới sự chứng minh của “Khất sĩ Minh Dung Pháp Thông”. Ván khắc trước do Đại sư Thiệt Sát Bửu Hương lo liệu. Có lẽ công việc khó bề kham nổi, nên Đại sư Thiệt Huệ Khánh Tài mới tiếp tục tự mình san khắc và hoàn thành đầu tháng 4 năm Giáp Dần. Bản in chúng tôi tham khảo, sau quyển 7 không có thông tin như mộc bản như hiện nay. Do chưa tiếp cận được với mộc bản nên phần thông tin sau quyển 7 sẽ có dịp công bố sau. Điều đáng chú ý là khất sĩ Minh Dung Pháp Thông chính là vị sư “ấn khả" khắc kinh hay được cung thỉnh chứng minh cho lần khắc ván Diệu pháp liên hoa kinh. Tên ngài được trân trọng ghi sau niên đại hoàn thành bản ván. Mối liên hệ giữa ngài với hai vị Đại sư Thiệt Sát Bảo Hương và Thiệt Huệ Khánh Tài, chưa rõ họ phải là sư đồ chăng? Hiện chúng ta vẫn chưa có thông tin gì? Đành để nghi vấn, chứ không dám quả quyết. Điều chắc rằng, họ thuộc tông môn Thập Tháp, cùng nằm trong kệ phái Tổ Định Tuyết Phong.

Một sự nghi vấn của chúng ta là Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông có vào phủ Bình Thuận chăng? Hay ngài chỉ chứng minh từ xa? Những câu hỏi trên nếu mà tìm được tư liệu thì chúng ta sẽ biết rõ ràng. Việc phát hiện bài vị thờ ngài tại tổ đường chùa Bửu Phong, Biên Hòa thì điều chắc chắc với cách ghi “khất sĩ" là từ dịch của chữ Tỳ-kheo, để chỉ vị Tăng thường vân du hành hóa, “trên xin giáo pháp chư Phật, dưới xin thức ăn của thí chủ11. Do vậy, ngài đi vào Bình Thuận, hoặc xa hơn đến cả Đồng Nai để hành đạo, nên có dấu ấn là được lập bài vị phụng thờ.

Bản in Nhân quả thực lục cũng được tìm thấy tại Thư viện Huệ Quang. Tờ 29b, có ghi: “Phật đệ tử Nguyễn Văn Tuyển pháp danh Thiệt Tấn, tự viết Thiện Phước xuất tài ấn thí Nhân quả thực lục toàn tập. Long Đức ngũ niên thập nguyệt thập tam nhật khất sĩ Minh Dung Pháp Thông lực sinh trùng tử

佛弟子阮文選法名實進字曰善福出財印施因果實錄全集。龍德五年十月十三日,乞士明融法通力生重梓”.12

Dịch nghĩa:

Đệ tử Phật là Nguyễn Văn Tuyển pháp danh Thiệt Tấn, tự là Thiện Phước bỏ của ấn tống Nhân quả thực lục toàn tập. Ngày 13 tháng 10 năm Long Đức thứ 5 (1738), khất sĩ là Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông khắc lại.

Đây là thông tin của lần khắc ván năm Long Đức thứ 5 (1736) do chính ngài Minh Dung Pháp Thông tổ chức khắc ván Nhân quả thực lục. Khi ván khắc xong thì được một vị đệ tử của ngài là Nguyễn Văn Tuyển pháp danh Thiệt Tấn bỏ tiền ra in để ấn tống cúng dường. Kiểm tra toàn bộ tập sách thì không thấy ghi nơi tàng ván, cũng như địa điểm khắc bản. Thật đáng tiếc cho chúng ta, khi tiếp cận bản in, mong tìm ra vị trí nơi hành đạo của Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông.

Hoàng Long Đại Hòa thượng trong Gia Định thành thông chí

Sách Gia Định thành thông chí do Trịnh Hoài Đức biên soạn và hoàn thành dưới triều Minh Mạng. Đây là một bộ sách phương chí ghi chép về Nam Bộ. Trước đây, chúng ta tiếp cận được một số bản sao tả (chép tay) và được tổ chức phiên dịch và chú giải khá công phu. Tại Thư viện Quốc Gia Pháp hiện còn lưu giữ một bản in khá xưa. Bản in chỉ còn tập đầu gồm có 3 quyển 1, 2, 3; thiếu tập sau, tức bản in không còn nguyên vẹn của sách. Tình trạng sách cũng bị bong nhiều chỗ ở mấy tờ đầu và cuối của tập. Phần chúng ta quan tâm nằm ở quyển 2 Sơn xuyên chí, nhất là chú trọng ghi chép các núi ở trấn Hà Tiên. Sau đây, xin trích dẫn đoạn viết về núi Bạch Tháp mà theo lời chú của Phạm Hoàng Quân, đó là núi Đá Dựng, nơi có ngôi chùa do Hòa thượng Hoàng Long đến hành đạo và viên tịch được lập tháp 7 tầng. Xin trích đoạn liên quan:

Bạch Tháp sơn tại Vân Sơn, bắc ngũ lý, phong loan bàn khúc, thảo thụ sướng mậu. Quy Nhơn Tăng Hoàng Long Đại Hòa thượng vân du phi tích ư thử. Dĩ Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế Đinh Tỵ thập tam niên (Lê Ý Tông Vĩnh Hựu tam niên, Đại Thanh Càn Long nhị niên) Hòa thượng thị tịch, môn đệ tạo thất cấp Phù Đồ trân tàng xá-lị. Mỗi ư tam nguyên, Phật đản chi thần nguyên hạc lai nghi, thanh viên cúng quả, lưu luyến bồi hồi, hữu nhược tham thiền thính pháp chi ý, khả xưng Kỳ Viên tiêu sái Tịnh độ.

白塔山在雲山,北五里峰巒盤曲,草樹暢茂。歸仁僧黄龍大和尚雲遊飛錫於此以肅宗孝寧皇帝丁巳十三年(黎懿宗永佑三年,大清乾隆二年)和尚示寂,徒弟造七級浮屠珍藏舍利。每於三元,佛誕之晨元鶴來儀,青猿供果留戀徘徊,有若參禪聽法之意可稱祇園消洒浄土".13

Dịch nghĩa:

Núi Bạch Tháp cách Vân Sơn về phía Bắc 5 dặm, thế núi quanh co, cây cối tươi tốt. Hoàng Long đại Hòa thượng, vị Tăng ở Quy Nhơn vân du chống gậy đến đây. Năm Đinh Tỵ, Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng Đế năm thứ 13 (Lê Ý Tông Vĩnh Hựu năm thứ 3, Thanh Càn Long năm thứ 2), Hòa thượng thị tịch, môn đồ tạo tháp 7 tầng, chứa xá-lị. Hàng năm cứ dịp tam nguyên, ngày Phật đản thì có con hạc đen đến chầu, con vượn xanh dâng trái, lưu luyến bịn rịn như có ý muốn tham thiền nghe pháp, đáng gọi là chốn Tịnh độ tiêu dao14.

Hoàng Long Đại Hòa thượng ở đây chỉ đạo hiệu hay ngôi chùa? Chúng ta hiện khó mà biết được. Thông tin từ Gia Định thành thông chí đưa ra, ít có tư liệu nào kiểm chứng. Chưa biết tháp mộ ngài có còn tại núi Bạch Tháp hay không? Chúng ta thấy sách ghi “Hoàng Long 黄龍" khá giống với tên chùa trong bản in Long thư Tịnh độ văn mà chúng ta trích dẫn trên. Người soạn sách, một là không biết pháp danh và đạo hiệu của ngài. Hai là ghi lại theo lối tôn xưng, tức lấy tên chùa để chỉ về vị Tăng trụ trì. Chúng tôi ngờ “Hoàng Long Đại Hòa thượng"là cách gọi theo lối tôn xưng. Tham chiếu về vị Tăng cũng ở phủ Quy Nhơn vào phủ Gia Định hành đạo. Đó là Hòa thượng Tế Nhơn Đạt Bổn, mà bài tựa Pháp hoa khoa chú có ghi là “Quy Nhơn phủ, Bảo Quang phương trượng sa môn Tế Chơn Đạt Bổn đạo nhân tự”. Bài tựa do chính ngài soạn vào năm Nhâm Ngọ (1762) Cảnh Hưng thứ 23 nên ghi rõ pháp danh và đạo hiệu, chứ phía trước vẫn để ngôi chùa và địa danh phụ thuộc. Cả hai vị đều là những vị Tăng từ phủ Quy Nhơn đi vào hành đạo tại Nam Bộ. Hoàng Long Đại Hòa thượng thuộc thế hệ trước sa môn Tế Chơn Đạt Bổn. Nhờ vậy, biết được chùa Hoàng Long thuộc phủ Quy Nhơn, vị trí thôn xã thì khó mà tìm ra. Năm ngài viên tịch là năm Đinh Tỵ tức năm 1737, khá sớm đối với Phật giáo vùng Hà Tiên. Ngài có thể là vị Tăng đến hành đạo sớm nhất.

Hoàng Long là ngôi chùa thì đây cũng có thể chỉ cho Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông. Cứ theo liên tọa tại chùa Liên Tôn (Quảng Ngãi) thì Hòa thượng viên tịch năm Ất Tỵ (1749). Hai vị đều tịch năm Tỵ, mà theo thiểu ý chúng tôi là một vị. Trịnh Hoài Đức có thể nghe nhầm hoặc viết nhầm từ Ất Tỵ sang Đinh Tỵ chăng? Điều đó cũng có thể xảy ra, nhất là người soạn sách cách xa một vài thế hệ đối với người được ghi chép. Do vậy, theo chúng tôi, Hoàng Long Đại Hòa thượng trong Gia Định thành thông chí đã đến trấn Hà Tiên hành đạo trên núi Bạch Tháp chính là Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông. Bài vị Hòa thượng Thành Chí Pháp Thông phụng thờ tại tổ đường chùa Bửu Phong (Biên Hòa), cho ta thấy ngài là vị Tăng từng đến phủ Gia Định hành đạo. Không dừng lại Biên Hòa, ngài đi tiếp xuống trấn Hà Tiên, nơi gần cuối tổ quốc, mà núi Bạch Tháp gần giáp với địa phận nước Campuchia. Chưa rõ năm ngài du hóa vào Hà Tiên, để biết thời gian hành đạo tại đây. Điều mà chúng ta có thể suy ra là ngài vào hẳn Hà Tiên cho đến khi viên tịch. Chúng tôi cứ theo các sử liệu hiện biết, mà đối chiếu so sánh để tìm rõ dấu ấn của Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông. Do chưa vào Hà Tiên để điều tra nên sự gợi ý trên cũng trong sự giả định và nối kết. Mong rằng phát hiện thêm nhiều sử liệu về Hoàng Long Đại Hòa thượng, nhất là ngôi tháp và bi chí sẽ giải đáp được nhiều nghi vấn.

Tóm lại, sử liệu về Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông hiện biết cũng chỉ ở sự góp nhặt từ các nguồn tư liệu Hán-Nôm. Chúng tôi cũng còn nhiều nghi vấn về ngài, nhất là quê quán, tông tộc cùng quá trình xuất gia học đạo. Hòa thượng luôn gắn bó với ngôi chùa Hoàng Long, nơi ngài trụ trì. Nhờ Gia Định thành thông chí, xác định Hòa thượng Hoàng Long gốc từ phủ Quy Nhơn vào Hà Tiên và khi tịch được lập tháp ở núi Bạch Tháp. Dựa vào lối ghi tôn xưng “Hoàng Long Đại Hòa thượng”, chúng tôi đã chỉ ra đó là Hòa thượng Minh Dung Thành Chí Pháp Thông, và xác định nhân thân của Hòa thượng gốc từ Quy Nhơn. Thế kỷ XVIII, nhiều vị Tăng từ Quy Nhơn vào Gia Định hành đạo, điều đó cho thấy Phật giáo phủ Quy Nhơn đã giúp cho sự phát triển của Phật giáo Gia Định. Trong đó có một phần công sức của Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông. Nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, thảo luận và phát hiện thêm nhiều nguồn sử liệu, để giúp cho sự hiểu biết về Phật giáo Nam Hà cũng như lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo phủ Gia Định.

_____________

BP, ngày 18 tháng 3 năm 2024

(1) Hai bộ kinh sách trên đều lưu tại Thư viện Huệ Quang. Nhân quả thực lục thì Thư viện Huệ Quang có bản trùng san năm Mậu Thìn (1808).

(2) Chùa Bửu Phong (Biên Hoà) có bài vị thờ ngài đề tên húy là Thành Chí thượng Pháp hạ Thông, giống như bài vị thờ tại chùa Quốc An (Huế).

(3) Chúng tôi sử dụng bản chụp của Thư viện Huệ Quang từ chùa Triều Tôn, Phú Yên.

(4) Mật Thể (1944), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb.Tân Việt, Hà Nội, trang 233.

(5) Nguyên ông: viết theo lối tôn xưng, lấy chữ sau của pháp hiệu nối với từ Ông, hoặc công mà thường thấy trong các bia tháp Tổ. Ở đây chỉ về ngài Đạo Nguyên tên húy là Tánh Đề, vị trụ trì chùa Thập Tháp (Bình Định).

(6) Theo Tế tông Tây Thiền Thiện An lão Hòa thượng tháp 濟宗西禪善安老和尚塔, hàng thứ 4, 5. Bia do pháp đệ Minh Giác đề và được khắc tháng Chạp năm Vĩnh Hựu 7 (1741).

(7) Sách hiện lưu tại Thư viện chùa Viên Giác, Hội An.

(8) Căn cứ Tông giáo luật chư gia diễn phái, Thiền sư Đột Không Trí Bản thuộc đời 25 phái Lâm Tế, đời thứ 7 dòng Bích Phong đã xuất kệ truyền pháp gồm 16 chữ: “Trí tuệ thanh tịnh, đạo đức viên minh. Chân như tính hải, tịch chiếu phổ thông"(tờ 4a). Sau đó, các chùa thuộc Ngũ Đài, Nga Mi, Phổ Đà đã tục kệ thêm 32 chữ, thành ra bài kệ đầy đủ 48 chữ như hiện nay. Thiền sư Đột Không Trí Bản đời 25 thì chữ Hải thuộc đời 36 phái Lâm Tế mới đúng.

(9) Lược sử Phật giáo Bình Thuận, trang 10 có phiên âm đoạn này nhưng bỏ qua hai chữ “lâu chi"và có tỉnh lược một đoạn tên kinh và lời cầu nguyện, mà không thấy ghi chú rõ.

(10) Ấn khả: một thuật ngữ của Thiền tông, nói đủ là Ấn khả chứng minh hoặc ấn chứng. Trong đoạn trích, chúng tôi chọn nghĩa chứng minh thích hợp.

(11) Thiện Nhân soạn, Thái Hư giám định, Sơ đẳng phật học giáo khoa thư, bài thứ 20, do Ấn Quán Bồ Đề in, Sài gòn, 1962. Nội dung như sau: “梵語比丘,此云乞士。謂上乞諸佛之法,下乞檀越之食”.

(12) Nhân quả bảo lục, bản in lại năm Mậu Thìn (1808), do sư Tổ Tri Quảng Đạt, chùa Đức Long khắc lại ván. Cuối sách có bài bạt của đạo nhân Phổ Tế ở Bát Nhã đường, tàng bản chùa Đức Long. Bản này dựa vào bản in do ngài Minh Dung Pháp Thông khắc ván năm Long Đức thứ 5 (1736). Sách lưu tại Thư viện Huệ Quang, Thành phố Hồ Chí Minh.

(13) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí quyển chi nhị Sơn Xuyên, tờ 63b8-64a3. Bản lưu tại Thư viện Quốc Gia (Pháp), kí hiệu ANNAMITE A.74/1. Chúng tôi sử dụng ảnh chụp từ sách.

(14) Lời dịch tham khảo Phạm Hoàng Quân dịch, chú và khảo chứng, Gia Định thành thông chí, Địa chí vùng Nam Bộ đầu thế kỷ XIX, Nxb.Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, trang 116.T

(NSGN 337)

Bình luận

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Bài trên Báo Giác Ngộ số 1290 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn

Pháp sư là thiện thuyết

GNO - Học pháp, hành pháp và thuyết pháp là nhiệm vụ quan trọng của hàng đệ tử Phật. Không chỉ hàng xuất gia mà các đệ tử tại gia cũng luôn thuyết giảng, chia sẻ và luận đàm giáo pháp.
13 pháp đầu-đà và cách thức thực hành

13 pháp đầu-đà và cách thức thực hành

NSGN - Rất lâu trước thời Đức Phật đã có những phương pháp tu khổ hạnh khác nhau. Những người chấp nhận những phương pháp tu khổ hạnh này tin rằng chúng có thể giúp họ giải thoát khổ đau.

Thông tin hàng ngày