Trước hết, vùng đất mới có thể được hiểu theo hai cách. Đó là nơi xa xôi, hẻo lánh, nơi mới thành lập và ít người biết đến. Nó cũng có thể được hiểu là nơi ta chưa từng đặt chân tới hay chưa từng biết đến cho dù nó ở xa hay gần quanh ta. Trong trường hợp này, vùng đất mới là nơi Phật giáo chưa từng được giới thiệu đến và người dân chưa từng biết đến đạo Phật, hay cụ thể hơn là các tông phái Phật giáo.
Phật giáo về buôn, làng. Ảnh: Nguyên Hiệp
Tựa đề “Hoằng pháp ở những vùng đất mới” gợi cho bạn đọc nghĩ về những cơ hội và thách thức mà những nhà truyền đạo, hay hoằng pháp viên nói theo ngôn ngữ Phật giáo Việt Nam, phải dự tính để tận dụng và đương đầu để giải quyết. Bài viết này không đi vào nội dung cơ hội và thách thức mà chỉ trình bày kinh nghiệm hoằng pháp của chư vị tiền nhân và sự nghiệp hoằng pháp hiện tại. Qua đó, chúng ta có thể đối chiếu để rút ra những bài học và bổ sung vào những chỗ khiếm khuyết để xây dựng một chương trình hoằng pháp thích hợp và khả thi cho thời đại hiện nay. Có lẽ, đó cũng là điều đáng nên làm cho Phật giáo.
Theo sử liệu Phật giáo, đạo Phật đã có mặt tại Việt Nam trên dưới 2.000 năm. Nhưng ở bài viết này, người viết chỉ sẽ đề cập kinh nghiệm hoằng pháp của tiền nhân trong hai giai đoạn: giai đoạn Phật giáo được giới thiệu vào Việt Nam và giai đoạn thế kỷ XVII. Ở mỗi giai đoạn, người viết chỉ đề cập những điểm trọng yếu có liên hệ và ảnh hưởng đến vấn đề hoằng pháp hiện tại.
Giai đoạn Phật giáo được giới thiệu vào Việt Nam
Trong quyển Việt Nam Phật giáo sử luận, Giáo sư Nguyễn Lang cho rằng Phật giáo được giới thiệu lần đầu tiên ở Việt Nam là do các thương buôn người Ấn và sau đó mới có các Tăng sĩ Ấn Độ. Giả thuyết này có sự hợp lý vì lúc ấy các Tăng sĩ vô sản không thể tự sắm thuyền đi truyền đạo mà chỉ có thể theo các thương buôn - những người đến Việt Nam chỉ vì mục đích buôn bán. Từ đó, có hai giả thuyết đặt ra về sự có mặt của các Tăng sĩ Ấn là họ được các thương buôn mời đi theo đoàn để cầu nguyện cho chuyến đi bình yên;(1) hoặc họ tháp tùng theo vừa để cầu nguyện cho đoàn, vừa nhân cơ hội này để truyền bá Chánh pháp. Dù với động cơ nào đi nữa thì sự có mặt của họ tại Việt Nam vào những thế kỷ trước và sau Tây lịch là sự thật.
Cũng theo sử liệu này, các thương buôn người Ấn Độ là những cư sĩ thực hành Phật giáo Đại thừa. Sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo của họ bao gồm: thờ cúng Phật Nhiên Đăng và Bồ-tát Quán Thế Âm để đem lại cho họ sự bình yên ở ngoài biển khơi, giữ gìn tam quy và năm giới, bố thí cúng dường...(2) Thời ấy, việc đi lại phải nhờ vào gió mùa nên có khi thời gian cả đi lẫn về phải mất cả năm trời. Trong thời gian ở lại Việt Nam để buôn bán và chờ đợi, họ có sự giao tiếp với người bản xứ và do đó, sinh hoạt của họ dần dần ảnh hưởng đến người Việt. Phật giáo chưa được thuyết giảng bằng lời qua các nhà truyền đạo đã có những bước đầu ảnh hưởng, cho dù mang hình thức tín ngưỡng.
Khi các Tăng sĩ Ấn đến Việt Nam, họ lập am cư ngụ để cầu nguyện cũng như hướng dẫn các thương buôn tu tập, và dần dần có những người bản xứ tìm đến họ. Hẳn nhiên các Tăng sĩ phải học ngôn ngữ Việt để hướng dẫn người Việt. Câu hỏi đặt ra là tại sao họ theo đạo Phật trong khi họ cũng có tín ngưỡng riêng? Những giải thích có thể chấp nhận được như sau. Thứ nhất, Phật giáo và tín ngưỡng bản địa có sự tương đồng, và về nhiều mặt nổi trội hơn tín ngưỡng bản địa. Ví dụ, Đức Phật được xem như một bậc có phép thần thông hiểu rõ lòng người, có tình thương rộng lớn luôn cứu giúp người hiền, không phạt kẻ ác như ông Trời của họ. Thứ hai, những quan niệm về nhân quả thiện ác, luân hồi, từ bi rất hợp với niềm tin và sở nguyện của người Việt lúc ấy(3). Thứ ba và quan trọng nhất, là các Tăng sĩ và thương buôn đã đem đến cho người bản xứ những thứ họ cần.
Từ trường hợp này, chúng ta có thể rút ra ba điểm như sau: tầm quan trọng của những người tiền trạm, sự trang bị căn bản của một nhà truyền đạo, và sự dấn thân của một Tăng sĩ hoằng pháp. Điểm thứ nhất, chính các thương buôn là những người tạo điều kiện thuận lợi (về đời sống và môi trường) cho các Tăng sĩ. Thứ hai là việc sử dụng ngôn ngữ và hiểu biết văn hóa Việt. Có lẽ các Tăng sĩ Ấn lúc bấy giờ phải khổ công để học ngôn ngữ. Thứ ba là các Tăng sĩ tự nguyện ở lại truyền đạo nơi vùng đất mới, và họ đã sinh sống cùng với người Việt trong một thời gian dài nhất định để cảm hóa người Việt theo Phật giáo.
Giai đoạn thế kỷ XVII
Suốt chiều dài lịch sử truyền đạo ở Việt Nam, Phật giáo đã đón tiếp rất nhiều Tăng sĩ người Ấn cũng như người Hoa, và nhiều người trong số họ đã đóng góp rất to lớn cho sự hình thành và phát triển đạo Phật Việt Nam. Những người có công giới thiệu và tạo nền tảng cho việc duy trì tông phái Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng mạnh hiện nay không thể không kể đến Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch và Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo. Cả hai đều là thiền sư người gốc Hoa, thuộc dòng Lâm Tế.
Thiền sư Nguyên Thiều thuộc đời thứ 33 dòng Lâm Tế ở Trung Hoa. Năm 1677, Ngài theo thuyền buôn đến phủ Quy Ninh (Quy Nhơn), Bình Định cư trú. Đến năm 1683, tức 6 năm sau, Ngài lập xong chùa Di Đà Thập Tháp để truyền bá Phật pháp. Sau đó, Ngài ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng. Ở đây, Ngài được chúa Nguyễn Phúc Thái kính trọng và thỉnh cầu sang Trung Hoa để thỉnh mời các danh tăng, Phật tượng và pháp khí. Ngài tịch năm 1728, truyền bá Phật pháp tại Việt Nam được 51 năm(4). Như vậy, Ngài là người đầu tiên giới thiệu dòng thiền Lâm Tế ở Việt Nam. Ngài có rất nhiều đệ tử nên dòng thiền này được duy trì và truyền bá khắp các tỉnh Trung, Nam Bộ cho đến ngày nay.
Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo thuộc đời 34 dòng Lâm Tế. Năm 1695, Ngài qua Việt Nam cùng với phái đoàn Tăng sĩ do Thiền sư Thạch Liêm làm trưởng đoàn theo lời thỉnh cầu của chúa Nguyễn. Sau khi tổ chức giới đàn ở Thuận Hóa xong, Ngài và một số đồng môn không về nước mà ở lại Việt Nam để hoằng pháp. Năm 1696, thiền sư đã lập thảo am ở Hội An, sau này trở thành tổ đình Chúc Thánh, để tu tập và truyền đạo. Sau 50 năm hoằng hóa Chánh pháp tại Việt Nam, Ngài tịch vào năm 1746. Ngài đã đào tạo một thế hệ đệ tử xuất sắc có thể duy trì và phát triển thiền phái Chúc Thánh rộng khắp Việt Nam và cả hải ngoại(5).
Sự nghiệp truyền bá Chánh pháp của hai vị thiền sư - tổ sư để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Thứ nhất, sự truyền đạo của hai Ngài ở Việt Nam (vùng đất mới đối với hai Ngài) là hoàn toàn từ tâm nguyện độ sanh, bất vụ lợi. Thứ hai, cả hai Ngài đều xây dựng sự nghiệp bằng sự dấn thân và tài đức do tu tập. Thứ ba, hai Ngài đào tạo thế hệ đệ tử xuất sắc cho tương lai. Do đó, hai Ngài được giới lãnh đạo kính trọng và quần chúng ngưỡng mộ quy tụ về tu học.
Hoằng pháp ngày nay
Sự nghiệp hoằng pháp của Phật giáo Việt Nam hiện nay dựa vào Tăng Ni và cư sĩ nói chung và Ban Hoằng pháp nói riêng. Vì Ban Hoằng pháp được thành lập để chuyên trách về truyền bá Chánh pháp nên bài viết chỉ tập trung phân tích cơ cấu và sự hoạt động của ban này trong vai trò hoằng pháp ở những vùng đất mới.
Theo quyết định chuẩn y nhân sự bổ sung, Ban Hoằng pháp Trung ương nhiệm kỳ 2007-2012 có tất cả 59 thành viên chính thức và 52 ủy viên dự khuyết(6). Danh sách này cho thấy hầu hết các ủy viên chính thức và dự khuyết đều là những vị trụ trì hoặc ít nhất có một phận sự khác. Như vậy, chúng ta có thể suy luận rằng mục đích của Ban Hoằng pháp chỉ là giảng dạy giáo lý cho các đạo tràng đã có sẵn và không thể thích hợp hoằng pháp ở vùng đất mới (vì chưa có đạo tràng để giảng và các ủy viên khó lòng bỏ bổn tự để dấn thân lâu dài xây dựng đạo tràng ở vùng đất mới), trừ trường hợp Ban Hoằng pháp có mối quan hệ với các nhà lãnh đạo địa phương để có thể được mời thuyết giảng.
Để khắc phục, Ban Hoằng pháp nhiều năm qua đã nỗ lực đào tạo hàng trăm giảng sư bậc cao và trung để bổ sung đội ngũ giảng sư nhưng cũng chỉ nhằm mục đích thuyết pháp. Trong số những vị này, có nhiều vị chưa trụ trì hay có chức vụ cố định nên đã dấn thân đến những vùng xa xôi và vùng đất mới để hành đạo. Sự dấn thân của họ có thể quy vào hai trường hợp: hoặc có tâm nguyện phục vụ cộng với sự thỉnh mời của tín đồ, hoặc tự thân tìm đến những nơi xa xôi để hành đạo. Trường hợp thứ hai hiếm xảy ra vì điều kiện chủ quan lẫn khách quan hiện tại không cho phép.
Về hoạt động, Ban Hoằng pháp chưa có một kế hoạch cụ thể nào cho việc hoằng pháp ở những vùng đất mới bao gồm nhân sự, mục đích, phương pháp, v.v... Sự hoạt động của Ban Hoằng pháp hiện tại là hầu như dựa trên tinh thần tự nguyện cá nhân nhằm duy trì và tăng thêm tín đồ ở những nơi Phật giáo đã từng tồn tại hơn là mở rộng và thu nhận tín đồ ở những vùng đất mới. Tóm lại, sự nghiệp hoằng pháp ở những vùng đất mới còn bỏ ngõ.
Những kinh nghiệm tiền nhân và đề xuất
Qua sự trình bày ở trên, ta có thể rút ra một số kinh nghiệm khi hoằng pháp ở những vùng đất mới. Thứ nhất, phải tìm hiểu ngôn ngữ, văn hóa và nhu cầu của người địa phương trước khi tiếp cận, và khi tiếp cận phải tạo cho họ có sự thiện cảm với Phật giáo (như trường hợp 1). Thứ hai, để gieo trồng những hạt mầm mới thì nhà hoằng pháp phải có kiến thức cần thiết, có trải nghiệm tu tập nhất định, và phải dấn thân sinh hoạt với người bản địa theo kiểu “mưa dầm thấm đất” (như cả hai trường hợp ở trên). Thứ ba, sự đóng góp quan trọng của giới cư sĩ trong việc phổ biến đạo Phật (trường hợp 1), sự trợ giúp cần thiết của chính quyền địa phương (trường hợp 2), và nhất là của Giáo hội Phật giáo trong thời hiện tại.
Để đáp ứng những điều kiện trên, Ban Hoằng pháp nên cơ cấu nhân sự theo mô hình hai thành phần: thành phần chính gồm những vị có chức vụ, đang trụ trì các chùa và đang tham gia thuyết giảng; và thành phần cơ hữu có thể bổ nhiệm đi hoằng pháp khắp nơi gồm những vị tốt nghiệp các lớp giảng sư và những vị có khả năng thuyết giảng bao gồm cả cư sĩ, với điều kiện là tất cả phải cam kết theo quy định của Ban Hoằng pháp. Theo đó, thành phần chính ngoài phận sự thuyết giảng phải xây dựng chương trình hoằng pháp, đào tạo nhân sự, lập quỹ tài trợ hoằng pháp, và đặc biệt xây dựng chính sách cho các thành viên. Thành phần cơ hữu có trách nhiệm theo sự phân công của ban: hoặc tham gia hoằng pháp ngắn hạn theo đoàn, hoặc dấn thân hoằng pháp ở một nơi xa xôi nào đó theo nhiệm kỳ hay trọn đời. Những vị này phải được hỗ trợ nhất định và nếu không ở trọn đời nơi đó thì khi hoàn tất nhiệm kỳ phải có được những quyền lợi ưu tiên, cụ thể như bổ nhiệm trụ trì hay tham gia các công tác khác, v.v…
Một chương trình như thế xem ra khó thực hiện ngay hiện nay. Tuy nhiên, nếu không sớm thực hiện thì dù đạo Phật được cho là vàng, kim cương nhưng khó tiếp cận thì cũng không bằng đồng, chì, kẽm… được cung cấp khuyến mãi có thể sử dụng ngay. Thiết nghĩ, những người con Phật có tâm hoằng pháp không thể không suy ngẫm.
Chú thích
(1) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 2000, trang 26.
(2) Sđd, tr. 44.
(3) Sđd, tr. 47-50.
(4) Sđd, tr. 586-9. Nguyễn Tài Thư, The History of Buddhism in Vietnam, USA: The Council for Research in Values and Philosophy, 2008, tr. 198.
(5) http://www.lamtechucthanh.com.vn/index.php?cmd=act:tieusu.