Nhà thơ Đường với nhà sư Nhật Bản

So với các nước Đông Á thì Phật giáo được truyền bá vào Nhật Bản tương đối muộn. Theo sách Nhật Bản thư ký, Phật giáo chính thức du nhập vào Nhật Bản vào năm 552 (có sách nói năm 538), từ Ấn Độ vào Trung Quốc, Hàn Quốc và sau đó đến Nhật Bản.

Năm 560, lần đầu tiên một phái đoàn Nhật Bản sang triều đình nhà Tùy (Trung Quốc) để giao lưu và thu thập kinh Phật. Năm 609, Imoko trở về Nhật Bản và mang theo nhiều tư liệu Phật giáo có giá trị từ Trung Quốc. Từ đó giao lưu về Phật giáo giữa hai nước Trung - Nhật bắt đầu hình thành, Phật tử hai nước thường xuyên qua lại. Các nhà sư Nhật Bản rất ngưỡng mộ trước sự phát triển của Phật giáo ở Trung Quốc. Đến thời nhà Đường (618-907), Phật giáo Trung Quốc rất thịnh, chùa chiền mọc lên như nấm, nhất là từ sau khi cuộc "Tây thiên thỉnh kinh" của Đại sư Huyền Trang (Đường Tam Tạng, 600-644) thắng lợi trở về với hơn 900 bộ kinh Phật thu thập từ Ấn Độ. Thời Đường, các nhà sư Nhật Bản đến học tập, thăm viếng và tu hành ở Trung Quốc thường bằng đường biển rất vất vả. Kinh đô Trường An, Lạc Dương và các trung tâm Phật giáo lớn ở Trung Quốc thời bấy giờ có rất nhiều Phật tử đến từ Nhật Bản.

thoduong-2.gif

Chính sách của Shoto Kutai Shi thiết lập quan hệ Phật giáo giữa hai nước Nhật Bản và Trung Quốc ngày càng mật thiết. Ngoài các đoàn sứ thần, nhiều sinh viên Nhật Bản được gửi đi du học Phật pháp và các môn văn hóa ở Trung Quốc trở về nước ngày càng đông, trong đó có những người du học ở Trung Quốc thời gian dài từ 20 đến 30 năm. Chẳng những họ học được nhiều kiến thức Phật pháp, văn hóa mà còn có tình cảm, gắn bó với đất nước và con người Trung Quốc. Hai học giả Nhật Bản Thizô và Doji xuất dương sang nhà Đường và trở về Nhật Bản truyền bá, giảng giải làm cho Tam luận tông phát triển rộng rãi.

Năm 653, Dosho từ Nhật Bản sang nhà Đường và theo học với Huyền Trang, rất được ông yêu mến, kính trọng. Khi trở về Nhật Bản, Dosho đã mang bản dịch "Joyui shikinon" bằng Hán ngữ và có tác dụng truyền bá tư tưởng mới. Ảnh hưởng của Huyền Trang ngày càng lớn ở Nhật Bản, thu hút sự cầu học của nhiều Tăng nhân. Năm 658, phái đoàn chư Tăng Nhật Bản là Chitsu và Chitasu cũng xuất dương sang nhà Đường để tầm sư học đạo với Huyền Trang.

Năm 701, Doji lại sang nhà Đường và ở lại 18 năm để nghiên cứu chuyên sâu nhiều giáo lý khác ngoài Tam luận. Doji về Nhật Bản và dày công xây dựng hệ thống giáo lý của Tam luận tông ở Nhật Bản uyên thâm và phức tạp hơn Tam luận tông của Kichizô thành lập ở Trung Quốc.

Năm 703, Chiyu và năm 716, Gembo sang nhà Đường học đạo. Năm 735, Gembo trở về Nhật Bản đã mang về 5.000 quyển kinh Phật sưu tập được ở Trung Quốc để truyền bá tư tưởng, triết học và văn hóa Phật giáo tân tiến ở Trung Quốc thời bấy giờ. Thời nhà Đường, các nhà sư Nhật Bản đến Trung Quốc ngày càng nhiều. Đến Trung Quốc mục đích chính của họ là tầm sư học đạo, tiếp thu tinh hoa Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang và sau đó tiếp thu nền văn hóa đang hưng thịnh ở đời Đường mà đỉnh cao là thơ Đường. Các nhà sư Nhật Bản học Hán văn, học thơ Đường và tiếp xúc với các nhà thơ Đường nổi tiếng. Sự giao lưu của các nhà thơ Đường với các nhà sư Nhật Bản ngày càng nhiều. Giá trị sâu xa của thơ Đường, cốt cách thanh cao, đẹp đẽ của các nhà thơ đời Đường để lại ấn tượng tốt đẹp đối với chư Tăng Nhật Bản. Nhiều bài thơ Đường từ đó được lưu truyền và phổ biến rộng rãi ở Nhật Bản. Một trong những bài thơ Đường được người Nhật yêu thích thời bấy giờ là bài "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị. Ngày nay đọc lại thơ Đường, không ít bài nói về tình cảm gắn bó, thân thiết của các nhà thơ Đường đối với các nhà sư Nhật Bản. Một trong số đó là bài "Tống Tăng quy Nhật Bản" (Tiễn nhà sư về Nhật Bản) của Tiền Khởi. Nguyên văn bài thơ như sau:

Thượng quốc tùy duyên trú

Lai đổ nhược mộng hành.

Phù thiên thương hải viễn

Khứ thế pháp chu khinh

Thủy nguyệt thông thiền tịch

Ngư long thích phạn thanh

Duy lân nhất đăng ảnh

Vạn lý nhãn trung minh.

Dịch nghĩa:

Ông vì cơ duyên mà đến ở Trung Quốc

Con đường đến đâynhư đi trong mơ.

Trời nổi trên biển xanh xa xa

Con thuyền chở đạo đi nhè nhẹ.

Trăng nước thông suốt theo tĩnh lặng của thiền

Rồng cá lắng nghe tiếng kinh Phật.

Duy chỉ thương ánh sáng một ngọn đèn

Muôn dặm sáng ngời trong đôi mắt của tôi.

(Hồ Sĩ Hiệp dịch)

Tiền Khởi (720-782) tự là Trọng Văn, người Ngô Hưng (Hồ Châu, tỉnh Triết Giang ngày nay); ông rất thông minh, năm 751 đậu tiến sĩ, làm chức Hiệu thư lang, có đi sứ vào đất Thục (nay là tỉnh Thiểm Tây) trở về được thăng lên Khảo công lang. Giữa thời Đại Lịch (766-779), ông làm Hàn lâm học sĩ, được coi là một "đại lịch thập tài tử", nổi tiếng về thơ, sánh ngang hàng với Lam Sĩ Nguyên, thường gọi là Tiền Lang. Tiền Khởi thường làm thơ tặng lúc chia tay, thù tạc với nội dung xa hiện thực xã hội. Một số bài của ông có giá trị nghệ thuật cao, được người đời khen ngợi.

Như tên gọi, bài thơ thuộc loại thơ "tống tặng" mà đầu đề của nó đã nói rõ đó là tình cảm lưu luyến tiễn đưa nhà sư Nhật Bản trở về nước sau khi đến Trung Quốc học đạo. Điều đáng nói trong bài thơ là tác giả (người đưa tiễn) là một nhà thơ trứ danh Trung Quốc đời Đường và người ra đi là một nhà sư khả kính của đất nước Phù Tang. Đây là một bài thơ Đường ngũ ngôn bát cú. Bốn câu đầu tả nhà sư Nhật Bản có cơ duyên tốt đẹp "trời nổi trên biển xanh xa xa" mà đến ở Trung Quốc để cầu kinh học đạo. Câu thơ "trời nổi trên biển xanh xa xa" có hình ảnh "trời" và "biển" vừa xanh thẳm vừa mênh mông, tác giả muốn nói con đường mà nhà sư Nhật Bản đến được Trung Quốc không dễ dàng. Vì thời bấy giờ chỉ có một con đường, đó là đường biển với một chiếc thuyền nhỏ bồng bềnh, trôi nổi rất hiểm nguy, nhất là khi có sóng to gió lớn. Câu thơ "con thuyền chở đạo đi nhè nhẹ" chỉ lúc nhà sư Nhật Bản từ Trung Quốc trở về. Câu thơ diễn tả theo nghệ thuật "nhất ngữ song quan" (một lời mà hai nghĩa), một nghĩa tả nhà sư đáp thuyền vượt biển khơi trở về nước, nghĩa khác sâu xa hơn là "Phật pháp phổ độ chúng sinh", dùng giáo lý nhà Phật để cứu vớt người đời. Đó là con thuyền hình tượng, mặc dù hình dáng nhẹ tênh (chu khinh) nhưng nó làm một việc lớn là tải đạo truyền pháp cho đời. (Từ câu thơ này liên tưởng đến câu thơ giàu hình ảnh "chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm" của Nguyễn Đình Chiểu).

thodung-1.gif

Liên thứ 3 (câu 5, 6), bài thơ ca ngợi phẩm cách thanh cao, đẹp đẽ và Phật pháp cao thâm của nhà sư Nhật Bản sau nhiều năm nghiên cứu đạo Phật ở Trung Quốc, khi trở về có thể làm kinh động cả ngư long. Liên cuối bài thơ (câu 7, 8) cũng là thủ pháp "nhất ngữ song quan", "ý tại ngôn ngoại", một lời hai ý và ý thơ nằm ở ngoài lời. Nghĩa đen nói con thuyền đưa nhà sư Nhật Bản lướt trên sóng biển, ánh đèn chiếu dài muôn dặm biển khơi. Nghĩa bóng của câu thơ sâu sắc, đầy hình tượng ngụ ý Phật pháp như ngọn đèn sáng tỏ có thể chiếu rọi ở nơi sâu thẳm tâm linh của mọi chúng sinh.

Tứ thơ độc đáo, đậm chất Thiền trong thơ Đường, được đời sau truyền tụng. Bài thơ vừa tả cảnh vừa tả tình. Cảnh ở đây là trời xanh, biển xa, trăng sáng, đèn tỏ. Tình được bộc lộ không nhiều nhưng chân thành và cảm động. Tình cảm tác giả dành cho nhà sư Nhật Bản là sự ngưỡng mộ, kính phục và yêu mến không nói lên lời. Bài thơ phần lớn sử dụng ngôn ngữ của Phật giáo (tùy duyên, nhược mộng, thế pháp, thiền tịch, phạn thanh…) nhưng được tác giả "chuyên môn hóa" nhằm chuyển tải nội dung đời sâu sắc.

Cũng là thơ "Tống tặng", nhưng bài thơ "Tống Tăng quy Nhật Bản" của Tiền Khởi có đặc điểm riêng, thể hiện với phong cách thơ, mang màu sắc "Thiền" trong thơ Đường. Qua bài thơ này đời sau có thể thấy được quan hệ gắn bó tốt đẹp giữa hai nền văn hóa Phật giáo Trung - Nhật từ ngàn xưa.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Hòa thượng, A-xà-lê và đệ tử

Hòa thượng, A-xà-lê và đệ tử

GNO - Thầy và trò hay sư phụ và đệ tử là những người có nhân duyên quyến thuộc đạo pháp nhiều đời. Mỗi người đều có trách nhiệm và bổn phận khác nhau. Chu toàn phận sự của mình thì Phật pháp mới xương minh, tứ chúng thập phương an ổn.
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1246 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn

Con đường đến Sơ quả

GNO - Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời. Trong rất nhiều kinh, Đức Phật dạy muốn thành tựu Sơ quả thì trước tiên cần thành tựu giới, kế đến chứng đắc định (bốn bậc thiền), sau đó phát huy tuệ đoạn trừ ba kiết sử đầu tiên: Thân kiến, giới cấm thủ và nghi.

Thông tin hàng ngày