GN - Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, ở rừng cây Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có bảy xứ thiện, với ba cách quán nghĩa”, thảy đều ở trong pháp này mà lậu hoặc được đoạn tận, do lậu hoặc được đoạn tận mà tâm được giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời tự mình biết rõ, tự thân chứng ngộ đầy đủ và an trụ: "Sự sanh của Ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa".
Kinh ghi - Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật trú rừng cây Kỳ-đà
Nước Xá-vệ, Cấp Cô Độc gia
Thế Tôn huấn dạy Ma-ha diệu kỳ
Có bảy xứ thiên lưu ly
Ba cách quán nghĩa thoát si nhiều đời
Pháp này lậu hoặc thảnh thơi
Pháp này đoạn tận kiếp người khổ đau
Tâm - tuệ giải thoát trần lao
Ngay đời chứng ngộ làu làu tự thân
An trụ đầy đủ đạo phần
Sự sanh đã dứt, pháp thân vững vàng
Báo thân đạo lực kim cang
Tròn xong hạnh nguyện an nhàn thong dong
Không còn tái sanh long đong
Đời sau tự tại thoát vòng tử sanh.
A. BẢY XỨ THIỆN
“Tỳ-kheo, thế nào là bảy xứ thiện? Tỳ-kheo biết như thật về sắc; biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự tận diệt của sắc, về con đường đưa đến sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Cũng vậy, biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; biết như thật về sự tập khởi của thức, về sự tận diệt của thức, về con đường đưa đến sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức”.
I. Bảy pháp Thiền quán về “sắc”
1. “Thế nào là biết như thật về sắc?” Những gì có sắc, tất cả bốn đại và sắc do bốn đại tạo. Đó gọi là sắc. Như vậy là biết như thật về sắc.
Sa-môn công đức thiền hành
Quán biết như thật sắc thanh ở đời
Những gì sắc tướng xinh tươi
Tất cả bốn đại chuyển dời lại qua
Đất nước lửa gió hằng sa
Tướng hình xương, thịt, gân, da… ấy là
Quán như thật mỗi sát-na
Sắc sắc hiện rõ như là sương mai.
2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của sắc?” Ái hỷ là sự tập khởi của sắc. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của sắc.
Sự thật về sắc thứ hai
Quán chiếu tập khởi hình hài ra sao!
Ái hỷ… tập khởi muôn màu
Ái hỷ sinh nghiệp lối vào trầm luân.
3. “Thế nào là biết như thật về sự đoạn tận của sắc?” Ái hỷ diệt. Đó gọi là sự diệt tận của sắc. Như vậy là biết như thật về sự diệt tận của sắc.
Thứ ba đoạn tận sắc thân
Ái hỷ diệt… tức đoạn phần khổ đau
Chấp ái hỷ… khổ lao đao
Ái hỷ diệt… sắc trần lao sạch phiền.
4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của sắc?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến, Chánh trí, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh phương tiện, Chánh niệm, Chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự tận diệt của sắc. Như vậy là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của sắc.
Con đường thế sự đảo điên
Do sắc tập khởi làm duyên buộc ràng
Muốn hết khổ phải biết rằng
Con đường đưa đến diệt phăng khổ buồn
Tám thánh đạo sáng như gương
Chánh kiến, chánh trí, ngữ… hương hoa thiền
Chánh nghiệp, chánh mạng… nối duyên
Chánh tinh tấn, niệm, định… kiền nhất như
Con đường tận diệt sắc thù
Phải là Bát chánh thiên thu đạo hiền.
5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của sắc?” Hỷ lạc do duyên vào sắc mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của sắc. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của sắc.
Biết như thật - sắc là tiên
Vị ngọt của sắc… đảo điên lòng người
Hỷ lạc duyên sắc xinh tươi
Vị ngọt rung động tâm người phàm phu
Hỷ lạc mê hoặc cương nhu
Vị ngọt lôi cuốn trượng phu mềm lòng
Hỷ lạc trăm nẻo đục trong
Vị ngọt trói buộc lâm vòng oan ương.
6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của sắc?” Sắc là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của sắc. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của sắc.
Một ngày sắc hiện tai ương
Một ngày sắc hiện vô thường khổ sầu
Một ngày vị ngọt đổi màu
Trái đắng khổ lụy buộc vào oan khiên
Một ngày vị ngọt hết duyên
Tổn hại cùng cực đảo điên trược phiền.
7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly sắc?” Đối với sắc mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xuất ly sắc. Như vậy là biết như thật về sự xuất ly sắc.
Thứ bảy xuất ly sắc triền
Biết rõ như thật oan khiên tướng hình
Sắc là giả ảo lung linh
Quán xét chân tướng tự mình ngộ ra
Điều phục dục tham huyễn tà
Đoạn trừ tham dục, vượt qua ma tình
Nhận ra chân tánh chính mình
Buông lìa ảo giác vô minh nhiều đời
Xuất ly sắc, lòng thảnh thơi
Đến đi tự tại… hạnh người chân tu.
II. Bảy pháp Thiền quán về “thọ”
1. “Thế nào là biết như thật về sự hiện hữu của thọ?” Có sáu loại thọ: mắt tiếp xúc sanh ra thọ và tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi tiếp xúc sanh ra thọ, đó gọi là sự hiện hữu của thọ. Như vậy là biết như thật về sự hiện hữu của thọ.
Thân người huyễn giả phàm phu
Có sáu cảm thọ luân lưu nghiệp trần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân
Sắc, thinh, hương, vị… đối trần ghét thương
Thọ vui, thọ khổ… vấn vương
Đó là thọ khổ trăm đường trầm luân
Cảm thọ hiện hữu nơi thân
Ra vào chi phối vạn phần buồn vui.
2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của thọ?” Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của thọ. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của thọ.
Tập khởi của thân ngọt bùi
Chính là cảm xúc tới lui nơi mình
Lắng lòng huyễn ảo hư tình
Từng bước tích tụ… nảy sinh trong lòng.
3. “Thế nào là biết như thật về sự đoạn tận của thọ?” Khi xúc diệt, thì đó là sự diệt tận của thọ. Như vậy là biết như thật về sự diệt tận của thọ.
Đến khi cảm xúc sạch trong
Xúc diệt đoạn tận thong dong tự mình
Tự mình lìa bỏ vô minh
Tự mình thoát kiếp tử sinh luân hồi.
4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của thọ?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến... cho đến Chánh định, đó gọi là con đường đưa đến sự tận diệt của thọ. Như vậy là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của thọ.
Con đường diệt tận khổ người
Bát Thánh đạo giúp thoát đời khổ đau
Chánh kiến, tư duy… nhiệm mầu
Tu tập dứt nghiệp thoát sầu trần nhơ.
5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của thọ?” Hỷ lạc do duyên thọ mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của thọ. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của thọ.
Như thật vị ngọt thọ… hờ
Hỷ lạc mê đắm như thơ ru hồn
Duyên thọ vị ngọt bồn chồn
Không còn phân biệt thiệt hơn pháp trần.
6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của thọ?” Thọ là vô thường, khổ, là biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của thọ. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của thọ.
Một ngày khổ thọ lụy thân
Tai hại của thọ muôn phần bi thương
Một ngày cảm xúc vô thường
Khổ hoại biến dịch chuyển đường tử sinh
Thọ khổ đổi tướng thay hình
Đi theo sắc uẩn lụy tình về không?
7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly thọ?” Nếu ở nơi thọ mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự lìa thọ. Như vậy là biết như thật về sự lìa thọ.
Như thật xuất ly thọ hồng
Tự chủ điều phục sắc không thế trần
Đoạn trừ dục tham phù vân
Vượt khỏi dục tham mộng phần lãng du
An trú tịnh định công phu
Buông lìa cảm xúc, điều nhu thọ tình.
III. Bảy pháp Thiền quán về “tưởng”
1. “Thế nào là biết như thật về tưởng?” Có sáu tưởng thân. Tưởng phát sanh từ xúc của mắt; tưởng phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là sự hiện hữu của tưởng. Như vậy là biết như thật về sự hiện hữu của tưởng.
Tưởng thân có sáu tướng sinh
Từ mắt sinh xúc gợi tình nghĩ suy
Tai, mũi, lưỡi, thân, ý... tùy
Cảm xúc mơ tưởng… nối thì mộng du
Hiện hữu cảm xúc… bi ưu
Ảo mà tưởng thật, như mù sương tan!
2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của tưởng?” Tập khởi của xúc là tập khởi của tưởng. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của tưởng.
Tập khởi của tưởng như rằng:
Tâp khởi của xúc cũng hằng phiêu diêu
Như thật xúc tưởng diễm kiều
Tưởng lui, tưởng tới… lắm điều hờ ru.
3. “Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của tưởng?” Diệt tận xúc là diệt tận tưởng. Như vậy là biết như thật về sự đoạn diệt của tưởng.
Diệt tận xúc, tưởng biệt mù
Như thật đoạn diệt ngàn thu tưởng sầu
Cảm xúc và tưởng tương giao
Xúc diệt, tưởng tận… một màu hoàn vô.
4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của tưởng?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến... cho đến Chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự đoạn diệt của tưởng. Như vậy là biết như thật về con đường đoạn diệt của tưởng.
Con đường đưa đến Nam-mô
Diệt tận của tưởng… như hồ thiên thanh
Tám đường Thánh đạo mới thành
Kiến, tư, ngữ, nghiệp, niệm… hành định cao
Tướng tánh tám nẻo trước sau
Quán tưởng tỏ rõ ra vào nhất như.
5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của tưởng?” Hỷ lạc nhờ duyên vào tưởng mà sanh ra. Đó gọi là vị ngọt của tưởng. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của tưởng.
Vị ngọt hỷ lạc thiền thư
Nhờ duyên vào tưởng kết từ sanh ra
Vị ngọt của tưởng nở hoa
Hoa phù du mộng kết tòa phù vân.
6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của tưởng?” Tưởng là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của tưởng. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của tưởng.
Tưởng vô thường, khổ xoay vần
Tưởng biến dịch, tai hại phần đến đi
Một ngày tưởng thọ sầu bi
Thì ra tỉnh ngộ phù trì khứ lai.
7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly tưởng?” Nếu ở nơi tưởng mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xuất ly tưởng. Như vậy là biết như thật về sự xuất ly tưởng.
Như thật xuất ly tưởng ngoài
Nơi tưởng điều phục, thoát đài dục tham
Đoạn trừ, vượt khỏi muốn ham
Chính là xuất tưởng ly phàm lìa mê
Xuất ly tưởng, trú Bồ-đề
Lìa xa vọng tưởng hướng về chơn không.
IV. Bảy pháp Thiền quán về “hành”
1. “Thế nào là biết như thật về hành?” Có sáu tư thân. Tư phát sanh từ xúc của mắt. Tư phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là hành. Như vậy là biết như thật về sự hiện hữu của hành.
Như thật tự thân sáu hành
Từ thân, khẩu, ý… phát sanh xúc từ
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý… tư
Căn thân hành động chuyển từ nẻo tâm
Đó là hành, đó là thân
Xuất sử gây nghiệp âm thầm hóa sanh.
2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của hành?” Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của hành. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của hành.
Tập khởi xúc, tập khởi hành
Xúc - hành tương túc tương sanh khởi sầu
Nghiệp xưa vô tận nguồn sâu
Xúc - hành tập khởi ban đầu mà ra
Muốn ngăn nghiệp chướng quỷ ma
Lìa hành, lìa xúc thì là an thân.
3. “Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của hành?” Sự diệt tận của xúc là sự diệt tận của hành. Như vậy là biết như thật về sự diệt tận của hành.
Diệt tận xúc, diệt tận hành
Xúc diệt, hành diệt đạo lành hóa thân
Xưa nay xúc - hành đạo nhân
Xúc diệt, hành diệt thiên chân an bình.
4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của hành?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến cho đến Chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của hành. Như vậy là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của hành.
Con đường đưa đến cứu tinh
Diệt tận hành… nhận hữu tình độ sanh
Tám đường thánh đạo viên thành
Kiến, tư, niệm, định… đạo lành hòa vui
Ngữ, nghiệp, tinh tấn… ngọt bùi
Ngày ngày tu tập thoát đời khổ đau.
5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của hành?” Hỷ lạc do duyên vào hành mà sanh ra, nên gọi là vị ngọt của hành. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của hành.
Hỷ lạc, vị ngọt dồi dào
Duyên hành xuất sử ra vào phong quang
Vị ngọt, hỷ lạc hành tràng
Làm cho ưa thích ngổn ngang vui buồn.
6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của hành?” Hành là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của hành. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của hành.
Một ngày hành sử vô thường
Khổ lụy, biến dịch vô phương cứu nàn
Tai hại của hành nhập tràng
Ôi thôi! Đau đớn vô vàn bi thương.
7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly hành?” Nếu ở nơi hành mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua được dục tham. Đó gọi là sự xuất ly hành. Như vậy là biết như thật về sự xuất ly hành.
Xuất ly hành, lìa vấn vương
Điều phục dục, đoạn tai ương tham sầu
Vượt qua ham muốn cơ cầu
Chính mình tự thắng nghiệp sầu ngàn năm.
V. Bảy pháp Thiền quán về “thức”
1. “Thế nào là biết như thật về thức?” Có sáu thức thân. Thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là sự hiện hữu của thức. Như vậy là biết như thật về sự hiện hữu của thức.
Như thật về thức tỏ phân
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý thân hiện bày
Sáu thức theo thân xưa nay
Thấy, nghe, ngửi, nếm… tự rày buồn vui
Thức biết gây nghiệp ngậm ngùi
Vô vàn khổ lụy đời đời trói duyên.
2. “Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của thức?” Sự tập khởi của danh sắc là sự tập khởi của thức. Như vậy là biết như thật về sự tập khởi của thức.
Tập khởi danh sắc tạo phiền
Tập khởi của thức, nối duyên buộc ràng
Thức hiện hữu, thức đa mang
Luân hồi sanh tử càng tăng nghiệp sầu.
3. “Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của thức?” Sự diệt tận của danh sắc là sự diệt tận của thức. Như vậy là biết như thật về sự diệt tận của thức.
Diệt tận danh sắc làm đầu
Biết danh sắc huyễn, khỏi sầu khỏi vương
Thức tánh soi sáng mọi đường
Đến đi, sanh tử… mười phương gọi là
Danh sắc là hương là hoa
Có không phảng phất như tà khói bay.
4. “Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của thức?” Là tám Thánh đạo: Chánh kiến cho đến Chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thức. Như vậy là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của thức.
Con đường diệt tận thức này
Tám thánh đạo Như Lai hoằng truyền
Chánh kiến, tư, tấn… trung kiên
Hành tri thẩm thấu thoát miền thức mê.
5. “Thế nào là biết như thật về vị ngọt của thức?” Hỷ lạc do duyên thức mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của thức. Như vậy là biết như thật về vị ngọt của thức.
Hỷ lạc duyên thức đi về
Vị ngọt ru ngủ sơn khê dặm ngày
Đối diện trần cảnh mơ màng
Hỷ lạc vị ngọt mộng vàng phù du.
6. “Thế nào là biết như thật về sự tai hại của thức?” Thức là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của thức. Như vậy là biết như thật về sự tai hại của thức.
Thức vô thường, thức khổ ưu
Là pháp biến dịch ngàn thu khổ buồn
Tai hại của thức sầu tuôn
Muôn điều khổ lụy vấn vương phong trần.
7. “Thế nào là biết như thật về sự xuất ly thức?” Nếu ở nơi thức mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xuất ly thức. Như vậy là biết như thật về sự xuất ly thức. Tỳ-kheo, đó gọi là bảy xứ thiện.
Xuất ly thức, ngộ huyễn thân
Nơi thức điều phục, đoạn nhân tham cầu
Vượt qua khỏi dục, khỏi sầu
An trú tịnh định, tọa sâu Niết-bàn.
B. BA PHƯƠNG PHÁP QUÁN NGHĨA
“Thế nào là ba phương pháp quán nghĩa?” ‘Nếu, Tỳ-kheo ở nơi hoang vắng, dưới gốc cây, hay nơi đồng trống, quán sát ấm, giới, nhập bằng phương tiện chân chánh mà tư duy nghĩa của chúng. Đó gọi là ba phương pháp quán nghĩa của Tỳ-kheo’.
“Đó gọi là bảy xứ thiện và ba phương pháp quán nghĩa của Tỳ-kheo, hoàn toàn ở trong trong pháp này mà chứng đắc lậu tận, đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này mà tự tri, tự thân chứng ngộ cụ túc và an trụ, biết rằng, ‘Sự sanh của Ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa”’.
Tỳ-kheo tìm chốn đạo tràng
Gốc cây, đồng vắng trú an định thần
Quán sát năm ấm… tỏ phân
Mười tám giới - thức, căn, trần… chiếu soi
Sáu nhập đi, đứng, nằm ngồi…
Khứ lai tỏ rõ, nối cười… hạo nhiên
Phương tiện chân chánh diệu huyền
Tư duy nghĩa pháp… sáng miền chơn như
Bảy xứ thiện, ba thiền thư
Tỳ-kheo chứng pháp hương từ long lanh
Tâm tuệ giải thoát vô sanh
Tự tri, tự ngộ viên thành quả chơn
An trụ, cụ túc linh sơn
Phạm hạnh viên mãn, tâm hồn thanh trong
Nhất như chân tánh tự lòng
Bồ-đề vô thượng tươi hồng ngàn sau.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
(ĐTKVN, Kinh Tạp A-hàm, tập 1, kinh 42, Thất xứ, tr.88, VNCPH ấn hành 1994)
TX.Ngọc Hòa - Vĩnh Long, mùng 2-9-Tân Mão