Thử bàn về hai cuộc kiết tập kinh điển khi Phật còn tại thế

Thử bàn về hai cuộc kiết tập kinh điển 
khi Phật còn tại thế

NSGN - Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển. Nhiều nhà nghiên cứu Phật học cho rằng đây là cuộc kiết tập kinh điển đầu tiên trong lịch sử Phật giáo(1).

Tuy nhiên, qua khảo sát kinh Thập thượng(2), kinh Phúng tụng(3), và Luận A-tỳ-đạt-ma tập dị môn túc(4); chúng tôi cho rằng, đã có nhiều dấu hiệu liên quan đến việc kiết tập kinh điển khi Phật còn tại thế. 

Kiết tập kinh điển là gì?

Kinh điển là những lời dạy của Đức Phật, được bảo lưu bằng trí nhớ hoặc bằng văn bản. Trong thời Đức Phật, kinh điển chưa xuất hiện trong hình thức văn bản mà được lưu giữ bởi năng lực ghi nhớ của chư Tăng. Thậm chí, sau khi Đức Phật diệt độ, với cuộc kiết tập kinh điển quy mô do ngài Maha Kassapa tổ chức tại Rājagaha, thì kinh điển vẫn chưa được ghi lại bằng văn bản.

Trong kinh Thanh tịnh(5), Đức Phật đã minh họa đôi nét về hình thức kiết tập kinh điển: Này Cunda, những pháp ấy do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các ngươi, tất cả ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc của muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài người. Tựa đề bản kinh Sangiti trong kinh Trường bộ có sự liên hệ nhất định đến việc kiết tập kinh điển trong lịch sử Phật giáo. Hơn thế, trong Hán tạng, kinh Chúng tập (tương đương kinh Phúng tụng), Tôn giả Xá Lợi Phất cũng khẳng định: Các vị Tỳ-kheo, hôm nay chúng ta cần phải kiết tập pháp, luật (諸 比 丘. 我 等 今 者. 宜 集 法, 律)(6).

Như vậy, kiết tập kinh điển là tập hợp những lời dạy của Đức Phật thành một chỉnh thể thống nhất, sau đó được chư Tăng lưu lại bằng trí nhớ hoặc bằng văn bản. Hạt nhân của sự kiết tập chính là những nội dung kinh điển do một vị thánh Tăng có thẩm quyền trùng tụng, sau đó được hội đồng Tăng-già xác tín. Trong trường hợp ở kinh Thập thượng và kinh Phúng tụng, thì những khái quát kinh điển do Tôn giả Sāriputta tuyên thuyết, đã được chính bản thân Đức Phật ghi nhận, do vậy, những nội dung này có giá trị pháp lý rất cao.

Theo cách hiểu truyền thống, kiết tập kinh điển mang ý nghĩa là sự tập hợp toàn bộ những lời dạy của Đức Phật. Tuy nhiên, do một vài thành viên có ảnh hưởng trong Tăng đoàn bất đồng về nội dung kiết tập, nên đã nảy sinh nhiều cuộc kiết tập kinh điển trong lịch sử phát triển của Phật giáo. Từ đó có thể thấy, kiết tập kinh điển không hoàn toàn mang nghĩa là sự tập hợp toàn bộ hệ thống giáo điển của Đức Phật. Ở đây, việc khái quát những lời dạy then chốt của Đức Phật, sắp xếp chúng vào trong một chỉnh thể thống nhất, cũng nên được xem là một dạng thức kiết tập kinh điển.

Những tiền đề dẫn đến việc kiết tập kinh điển trong thời Phật còn tại thế

Thứ nhất, ở thời Phật, kinh điển được quảng bố và lưu hành do bởi năng lực ghi nhớ của chư Tăng. Do đặc thù của tri thức ghi nhớ, do khả năng của người tiếp nhận và lưu giữ kinh điển… nên đã có sai lầm trong nhận thức về kinh điển, ngay cả trong chúng xuất gia.

Theo kinh Đại kinh đoạn tận ái, Tỳ-kheo Sati đã nhận thức sai lệch về sự vận hành của thức, và đã được chư Tỳ-kheo can ngăn: Hiền giả Sati chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy(7). Tương tự, trong kinh Ví dụ con rắn(8), Tỳ-kheo Arittha đã hiểu sai về bản chất của dục và đã được các vị đồng học Tỳ-kheo cảnh báo. Kinh Tương ưng(9) cũng bổ sung thêm, Tỳ-kheo Bhanda, đệ tử của Ananda, và Tỳ-kheo Abhinjika, đệ tử của Anuruddha họ không kính trọng lời giáo giới, và đã được chính Đức Phật trực tiếp huấn thị. Không những thế, có những kẻ sau khi từ bỏ đời sống xuất gia như thanh niên Sunakkhatta đã có những phát biểu lệch lạc về Đức Phật và giáo pháp của Ngài(10).  Sự sai lầm trong nhận thức về giáo pháp còn được đề cập rải rác trong nhiều bản kinh.

Xem ra, việc hiểu sai giáo pháp không phải đợi đến những cuồng ngôn của Tỳ-kheo Subhadda sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn(11), mà đã xuất hiện ngay trong thời Phật. Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến khát vọng hệ thống hóa và kiện toàn kinh điển.

Thứ hai, sự kiện các đệ tử của giáo phái Nigantha Nāthaputta  tranh cãi nhau đến mức quyết liệt sau khi giáo chủ của họ từ trần, là một thực tế làm cho các cao đệ của Đức Phật suy nghĩ và lo lắng. Đó cũng là ưu tư của Sa-di Cunda và Tôn giả Ananda được ghi lại trong kinh Làng Sama(12) và kinh Thanh tịnh(13). Đó cũng là lời đề dẫn của Tôn giả Sāriputta  trước khi thuyết kinh Phúng tụng(14). Đặc biệt, nội dung tương tự cũng được ghi lại rất đầy đủ trong luận A-tỳ-đạt-ma tập dị môn túc(15).

Từ hai cơ sở vừa trình bày cho thấy, nhu cầu tập hợp những lời dạy của Đức Phật thành một chỉnh thể thống nhất mà thuật ngữ Phật học gọi là kiết tập kinh điển, đã xuất hiện ngay trong thời Phật.

Nội dung hai cuộc kiết tập kinh điển

Mặc dù hai bài kinh Thập thượng và kinh Phúng tụng được sắp xếp gần nhau trong kinh Trường bộ, thế nhưng mỗi bản kinh ra đời trong một không gian và thời điểm khác biệt, cũng như có sự dị biệt tương đối về những nội dung giáo lý căn bản của Đức Phật. 

1- Kiết tập lần thứ nhất qua bài kinh Thập thượng 

Về không gian và niên đại

Căn cứ vào những thông tin được đề cập trong bản kinh cho thấy, địa điểm thuyết giảng kinh Thập thượng diễn ra bên bờ hồ Gaggara, trong đô thị Campā, thuộc nước Anga. Theo lịch sử Ấn độ cổ đại, Anga là một trong mười sáu quốc gia ở thời Phật(16)và có mối quan hệ giao hảo với quốc gia láng giềng Magadha . Sau khi vua Bimbisara, trị vì vương quốc Magadha đánh bại vua Brahmadatta, Anga bị sáp nhập và chịu tùng phục đế quốc Magadha (17). Trên bước đường du hóa, Đức Phật thường qua lại giữa hai quốc gia Magadha - Anga và đã có nhiều bài kinh quan trọng được thuyết giảng tại đây(18). Khảo sát về phương diện địa lý, đô thị Campā nằm ở vùng hạ lưu sông Hằng và cũng là điểm cuối về hướng Đông nam trong lộ trình hoằng hóa của Đức Phật(19).

Mặt khác, trong bốn mươi lăm năm giáo hóa, Đức Phật đã hai lần hoằng hóa ở khu vực Magadha (20). Lần thứ nhất diễn ra từ năm thứ hai đến năm thứ tư sau khi thành đạo, lúc đó đoàn thể Tăng-già chưa đông đảo và đó cũng là lúc Đức Phật nhận sự hiến cúng tinh xá Veluvana của vua Bimbisara. Lần thứ hai, Đức Phật trở lại Magadha từ năm thứ mười bảy đến năm thứ hai mươi với chúng Tỳ-kheo khoảng năm trăm vị.

Từ những thông tin liên quan đến vị trí địa lý, thời gian hoằng hóa của Đức Phật, số lượng đông đảo Tỳ-kheo và bài kinh do Tôn giả Sāriputta  thuyết, đã cho thấy, thời điểm bản kinh Thập thượng xuất hiện là vào chặng giữa trong bốn mươi lăm năm giáo hóa của Đức Phật. 

Về nội dung kiết tập

Qua 550 pháp từ bài kinh Thập thượng, được Tôn giả Sāriputta  lần lượt trình bày trong mười nhóm, đã tóm thâu những giáo nghĩa căn bản của Đức Phật.

Trước hết, về phương diện kinh điển, những giáo lý căn bản như Tứ đế, Ngũ uẩn, Bát chánh đạo…đều được định hình từ lần kiết tập sơ khởi này. Đơn cử, Thế nào là bốn pháp cần được thắng tri? Bốn Thánh đế: Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ diệt đạo thánh đế. Ðó là bốn pháp cần được thắng tri(21); Thế nào là năm pháp cần phải biến tri? Năm thủ uẩn: sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Ðó là năm pháp cần phải biến tri(22). Thế nào là tám pháp cần phải tu tập? Bát Thánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Ðây là tám pháp cần phải tu tập(23). Ngoài ra, pháp tu Tứ niệm xứ(24), quán vô thường, vô ngã, bất tịnh(25)cũng được thể hiện khá chi tiết và rõ ràng.

Sau khi lần lượt trình bày 550 pháp thể hiện trong mười nhóm, từ nhóm một pháp đến nhóm mười pháp, Tôn giả Sāriputta  đi đến kết luận: pháp này là chơn, thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác được Như Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác. Những pháp này có hiệu năng: Diệt trừ mọi khổ đau, Giải thoát mọi triền phược(26).

Như vậy, sau hơn hai mươi năm giáo hóa, những lý thuyết căn bản trong giáo pháp của Đức Phật đã được Tôn giả Sāriputta khái quát thành công qua 550 pháp cô động, súc tích và dễ nhớ. Đây là một trong những tiền đề để trước khi Đức Phật nhập Niết bàn, ngài Sāriputta  lại một lần nữa trùng tuyên những nội dung cơ bản của giáo pháp qua bài kinh Phúng tụng.

2- Kiết tập lần thứ hai qua bài kinh Phúng tụng và luận A-tỳ-đạt-ma tập dị môn túc

Về tư liệu, không gian và niên đại

Theo khảo sát của chúng tôi, Luận A-tỳ-đạt-ma tập dị môn túc (gọi tắt là luận Tập dị môn túc) thực chất là một bộ chú giải bản kinh Phúng tụng. Bộ luận này mang số hiệu 1.536 thuộc tập 26 trong Đại tạng kinh Đại chính tân tu. Tác giả bộ luận là Tôn giả Xá Lợi Tử và do ngài Huyền Tráng dịch sang Hán văn. Bộ luận này, hiện đã được cư sĩ Nguyên Huệ dịch sang tiếng Việt và sắp ấn hành. Đây là 1 trong 7 bộ luận nổi tiếng của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ, đã được soạn thuật từ thời Đức Phật tại thế(27). Về hình thức và nội dung thì luận Tập dị môn túc được phân thành 20 quyển, chú giải các nhóm pháp số, từ một pháp cho đến mười pháp. Đặc biệt, phần duyên khởi có nội dung giống như phần đầu của kinh Phúng tụng, thậm chí giống đến cả chi tiết nhỏ, như việc Đức Phật bị đau lưng, nên đã chỉ định Tôn giả Xá Lợi Phất thay Phật thuyết giáo(28).

Sự giống nhau giữa kinh Phúng tụng và luận Tập dị môn túc có ý nghĩa quan trọng về mặt tư liệu. Vì cả hai bản kinh và luận vừa nêu đã góp phần chứng minh tính xác thực về những nội dung giáo lý được Tôn giả Sāriputta  tuyên thuyết. Đặc biệt, kinh Phúng tụng (Sangiti) cũng hiện diện trong số 29 bản kinh cổ được phát hiện tại Kashmir vào năm 1994, và có niên đại từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ II sau Tây lịch, đã góp thêm tư liệu về tính xác thực của bản kinh này(29). Để tiện việc theo dõi, chúng tôi phần lớn sử dụng tư liệu bản kinh Phúng tụng và sẽ sử dụng luận Tập dị môn túc khi cần tham chiếu, bổ sung.

Kinh Phúng tụng do Tôn giả Sāriputta thuyết tại một hội trường lớn tên là Ubbhataka (Ốt-bạt-nặc-ca), trong đô thị Pāvā của dân tộc Mallā. Theo kinh, Đức Phật được dân chúng Mallā mời chứng minh lễ khánh thành hội trường Ubbhataka vào một buổi chiều tối. Sau khi thuyết giảng cho dân chúng Mallā xong, Đức Phật chỉ định Tôn giả Sāriputta  giáo giới cho năm trăm vị Tỳ-kheo hiện đang có mặt tại hội trường này.

Về vấn đề niên đại bản kinh Phúng tụng, căn cứ vào thông tin về giáo chủ Nigantha Nāthaputta  vừa từ trần, được ghi lại trong ba bản kinh như kinh Làng Sama, kinh Thanh tịnh và kinh Phúng tụng, căn cứ vào khoảng cách từ Pāvā đến Kusinagar, căn cứ vào tình trạng sức khỏe của Đức Thế Tôn, căn cứ vào lịch sử cuộc đời của ngài Sāriputta, đã cho thấy rằng, thời điểm mà Tôn giả Sāriputta  thuyết bài kinh Phúng tụng có niên đại xuất hiện trước khi Đức Phật nhập Niết-bàn hơn sáu tháng(30)

Về nội dung kiết tập

Nhận sự chỉ định giáo giới cho chúng Tỳ-kheo trong chặng cuối hành trình hóa độ của Đức Phật, đã làm cho Tôn giả Sāriputta  không tránh khỏi trầm tư. Trầm tư gần gũi nhất là sự kiện môn đệ của giáo phái Nigantha Nāthaputta tranh cãi nhau quyết liệt về việc đúng, sai trong giáo nghĩa, đã làm cho Tôn giả Sāriputta  nghĩ về phương cách bảo lưu những lời dạy của Đức Thế Tôn.

Do vậy, dù Đức Phật không ấn định nội dung thuyết giảng, thế nhưng căn cứ vào bối cảnh hiện tại và đặc biệt là khi nhớ lại bài tổng kết giáo nghĩa mang tên kinh Thập thượng, được chính bản thân Tôn giả thuyết giảng hơn hai mươi năm trước, đã thôi thúc Tôn giả Sāriputta trùng tụng lại toàn bộ những chủ điểm căn bản về giáo pháp. Với tên gọi là Sangiti, bài thuyết giảng của Tôn giả Sāriputta thực chất là cuộc kiết tập kinh điển dựa theo nghĩa căn bản của từ nguyên.

Cũng như bài kinh Thập thượng, kết cấu của bài kinh Phúng tụng được phân chia thành từng nhóm từ một pháp cho đến mười pháp, với tổng số lên đến 1.010 pháp. Sự cô động, khúc chiết và đầy đủ của bản tóm lược kinh điển, đã nói lên tầm mức trí tuệ của Tôn giả Sāriputta .

Trước hết, về nội dung giáo lý. Có thể nhận ra toàn bộ nội dung giáo lý Tứ đế đều hiện diện trong bài thuyết giảng này. Đó chính là Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí. Hơn nữa, các thành phần chi tiết trong giáo nghĩa Tứ đế như Khổ, Tập, Diệt và Đạo đều có mặt xen kẽ trong 1.010 pháp. Luận Tập dị môn túc giải thích: 1. Thế nào là khổ trí? Đáp: Nghĩa là đối với năm thủ uẩn tư duy chúng là vô thượng, khổ, không, vô ngã, phát khởi trí vô lậu. Đó gọi là Khổ trí. 2. Thế nào là Tập trí? Đáp: Nghĩa là đối với các nhân hữu lậu, tư duy nhân nơi tập sinh duyên phát khởi trí vô lậu. Đó gọi là Tập trí. 3. Thế nào là Diệt trí? Đáp: Nghĩa là đối với các thứ trạch diệt, tư duy về diệt, tĩnh, diệu, lìa, phát khởi trí vô lậu. Đó gọi là Diệt trí. 4. Thế nào là Đạo trí? Đáp: Nghĩa là đối với đạo vô lậu tư duy về đạo, như, hành, xuất, phát khởi trí vô lậu. Đó gọi là Đạo trí(31).

Đặc biệt, 37 phẩm trợ đạo trong Đạo đế đã được Tôn giả Sāriputta  trình bày mạch lạc và rõ ràng. Đó là các yếu tố như: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, tứ như ý túc, Năm căn, Năm lực, Thất giác chi và Bát chánh đạo đều có mặt đầy đủ trong bài kinh Phúng tụng này. Đây được xem là những nội dung giáo lý quan trọng được Đức Phật xác tín trong kinh Thanh tịnh(32)

Về phương diện giới luật và các pháp hành tu tập, năm giới và mười điều thiện cũng là điều được Tôn giả Sāriputta khái quát từ bản kinh. Các yếu tố liên quan đến giới luật như ba hình thức cử tội (thấy, nghe và nghi), bảy pháp Diệt tránh, sáu phép hòa kính…cũng xuất hiện. Bên cạnh đó, các lưu ý về lợi ích khi giữ giới và những nguy hiểm khi phạm giới cũng được thể hiện trong bản kinh này. Ngoài ra, các pháp hành bổ trợ như Tứ nhiếp pháp, các pháp môn tu như Chỉ và Quán, pháp môn Lục niệm (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm Thiên), quán vô thường, vô ngã, bất tịnh…cũng được đề cập.

Mặc dù chỉ dừng lại ở phương diện khái quát, thế nhưng qua những nội dung được trình bày trong kinh Phúng tụng, thì hai trọng tâm cơ bản trong giáo pháp của Đức Phật đã bước đầu được củng cố và định hình, đó là những dấu hiệu sơ khởi đầu tiên về hai tạng Kinh và Luật.

Sau khi lắng nghe Tôn giả Sāriputta  trình bày xong, Thế Tôn ngồi dậy và bảo Tôn giả Sāriputta: - Lành thay, lành thay Sāriputta! Này Sāriputta, ngươi đã khéo giảng, khéo tụng kinh này cho chúng Tỳ-kheo(33).

Tương tự, luận Tập dị môn túc đã dành phẩm thứ mười hai cuối quyển hai mươi để ghi lại sự ấn chứng của Đức Phật:

 Lúc này, Đức Thế Tôn biết Tôn giả Xá Lợi Tử vì chúng Bí-sô thuyết giảng pháp vừa xong, nên Ngài từ nơi chỗ nằm đứng dậy, thân tâm điều thuận, sửa lại y phục cho ngay ngắn, rồi ngồi kiết-già, tán thán Tôn giả Xá Lợi Tử: Lành thay! Tôn giả nay đã khéo có thể ở nơi giảng đường này, cùng với chúng Bí-sô hòa hợp kết tập pháp môn Tăng nhất do Như Lai đã giảng nói. Tôn giả có thể từ nay, vì các đại chúng thường nên diễn nói pháp môn như thế, vì các pháp ấy có thể khiến cho các hàng trời, người trong đêm dài sinh tử, chứng nhập, đạt nghĩa lợi, an lạc. Đức Thế Tôn lại bảo chúng Bí-sô: Các Bí-sô đều nên thọ trì đọc tụng pháp môn Tập Dị do Tôn giả Xá Lợi Tử giảng nói, vì pháp môn như thế có thể dẫn đến điều thiện lớn, nghĩa lớn, pháp lớn, phạm hạnh thanh bạch, lại chứng đắc thông tuệ, Bồ-đề Niết-bàn. Các thiện nam tịnh tín xuất gia thọ trì đọc tụng pháp môn như thế, không lâu nhất định sẽ hoàn thành mọi sự việc tu tập(34).

Có thể nói, việc khái quát toàn bộ những điểm chính của giáo pháp qua bản kinh Phúng tụng rất thuận lợi cho việc ghi nhớ và giữ gìn kinh điển. Trong bối cảnh gấp rút về thời gian và tính cấp bách của vấn đề trước khi Đức Phật diệt độ, nỗ lực của Tôn giả Sāriputta đáng được lịch sử Phật giáo ghi nhận và tôn vinh. Vì lẽ, từ những khái quát quan trọng này, sẽ là một trong những tiền đề cơ bản, để các cuộc kiết tập kinh điển về sau tham chiếu và y cứ.

Kết luận

Giữ gìn và truyền bá những lời dạy của Đức Phật là trách vụ cơ bản của tất cả những người đệ tử Phật, không luận xuất gia hay tại gia. Quan tâm đến việc giữ gìn những lời dạy của Đức Phật, không chỉ là trăn trở của riêng Tôn giả Maha Kassapa ngay sau khi Đức Phật diệt độ, mà đã được Tôn giả Sāriputta  quan tâm từ rất sớm và không chỉ một lần, trong thời gian Đức Phật còn tại thế. Đành rằng, việc kiết tập kinh điển của Tôn giả Sāriputta chưa quy mô và chỉ dừng lại ở những điểm khái quát, nhưng qua đó đã cho thấy tầm vóc của một bậc cao đồ được tôn xưng là trí tuệ đệ nhất và được Đức Phật xác tín: “Chính Sariputta, chuyển bánh xe Chánh pháp, thừa tự Như Lai vị”(35). Hơn thế nữa, những khái quát từ Kinh, Luật của tôn giả Sāriputta đã được chính bản thân Đức Phật ấn chứng, đó cũng là điều mà đại hội kiết tập tại Rājagaha không thể có được.

 Với những nội dung khái quát về những điểm chính trong giáo pháp, được thể hiện qua hai bài kinh Thập thượng, Phúng tụng và luận A-tỳ-đạt-ma tập dị môn túc, cần được xứng đáng ghi nhận là hai cuộc kiết tập kinh điển sơ bộ đầu tiên khi Phật còn tại thế.  

 Chú thích

(1) H.W. Schumann, Đức Phật lịch sử, Trần Phương Lan dịch, NXB. TP. HCM, 2000, tr.598; Theo, Lamotte, Étienne.,  History of Indian Buddhism, (Paris: Institute Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988), pp. 125; Narada Maha Thera, Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh dịch, NXB. Tôn Giáo, 2008, tr.261; Cullavagga, chương Liên quan năm trăm vị, nguyên nhân của cuộc kiết tập lần thứ nhất: Câu chuyện của Trưởng lão Mahakassapa và Subhadda, đoạn 614.

(2) Kinh Trường bộ, kinh Thập thượng, NXB. Tôn Giáo, 2013, tr.691.

(3) Kinh Trường bộ, kinh Phúng tụng, NXB. Tôn Giáo, 2013, tr.633.

(4)大正新脩大藏經第二十六冊 No. 1536, 阿毘達磨集異門足論. Bản tiếng Việt được sử dụng trong bài của cư sĩ Nguyên Huệ.

(5) Kinh Trường bộ, kinh Thanh tịnh, số 29, NXB. Tôn Giáo, 2013, tr.578-579.

(6)大正新脩大藏經第一冊 No. 1, 佛說長阿含經卷第八, 佛說長阿含第二分眾集經第五.

(7) Kinh Trung bộ, Đại kinh đoạn tận ái, số 38, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.317.

(8) Kinh Trung bộ, kinh Ví dụ con rắn, số 22, NXB. Tôn Giáo, 2012, tr.173.

(9) Kinh Tương ưng, tập 2, Thiên nhân duyên, chương năm: Tương ưng Kassapa, kinh Giáo giới.

(10) Kinh Trung bộ, Đại kinh sư tử hống, số 12, NXB. Tôn giáo, 2012,  tr.101.

(11) Cullavagga, chương Liên quan năm trăm vị, nguyên nhân của cuộc kiết tập lần thứ nhất: Câu chuyện của Trưởng lão Mahakassapa và Subhadda, đoạn 614.

(12) Kinh Trung bộ, kinh Làng Sama, số 104, NXB. Tôn Giáo, 2012, tr.301.

(13) Kinh Trường bộ, kinh Thanh tịnh, số 29, NXB. Tôn Giáo, 2013, tr.571.

(14) Kinh Trường bộ, kinh Phúng tụng, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.633.

(15)大正新脩大藏經第二十六冊 No. 1536, 阿毘達磨集異門足論. Quyển 1, phẩm 1: Duyên khởi

(16) Lamotte, Étienne., History of Indian Buddhism, (Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988), pp. 8-9. Xem thêm, kinh Tăng chi, chương ba pháp, phẩm Lớn, kinh Các lễ Uposatha, đoạn 70 cũng có đề cập đến 16 quốc gia này. Nguyên văn: Ví như, này Visākhā, có người áp đặt chủ quyền trên 16 quốc độ lớn tràn đầy bảy báu như Anga, Magadha, Kàsi, Kosala, Vajji, Mallā, Ceti, Vangā, Kurù, Pancālā, Macchā, Surasenā, Assakā, Avanti, Gandhārā, Kambojā, nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một trai giới thực hành đầy đủ cả tám mặt. Vì cớ sao? Nhỏ nhoi thay, này Visākhā, là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên

(17) Lamotte, Étienne., History of Indian Buddhism, (Paris: Institute Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988), pp.12

(18) Kinh Trường bộ, kinh Chủng đức, NXB.Tôn giáo, 2013, tr.109; Kinh Trung bộ, kinh Kandaraka, số 51, NXB.Tôn giáo, 2012, tr.417; kinh Tăng chi bộ, chương 7, phẩm Tế đàn, kinh Bố thí, VNCPHVN, 1996, tr.355.

(19) Lamotte, Étienne.,  History of Indian Buddhism, (Paris: Institute Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988), pp. 873.

(20) John. S. Strong, The Buddha, a short biography, (England: 2002), pp.102; Xem thêm, Narada Maha Thera, Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh, dịch, NXB. Tôn giáo, 2008, tr.216.

(21) Kinh Trường bộ, kinh Thập thượng, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.694.

(22) Kinh đã dẫn, tr. 695.

(23) Kinh đã dẫn, tr. 701.

(24) Kinh đã dẫn, tr. 694.

(25) Kinh đã dẫn, tr. 698.

(26) Kinh đã dẫn, tr. 694

(27) Xem thêm, Jintaro Takakusu, A-tỳ-đàm trong truyền thống Hữu bộ, Tỳ-kheo Giác Nguyên dịch.

(28) 阿 毘 達 磨 集 異 門 足 論. quyển 1, phẩm 1, Duyên khởi: 爾 時 世 尊 告 舍 利 子. 吾 今 背 痛 暫 當 寢 息. 汝 可 代 吾 為 苾 芻 眾 宣 說 法 要 勿 空 度 也 (Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-tử: Ta nay lưng bị đau, cần nghỉ ngơi. Vậy thầy có thể thay Ta giảng nói các pháp thiết yếu cho chúng Bí-sô, chớ nên bỏ phí thời giờ. Nguyên Huệ dịch).

(29) Xem thêm, Tâm Hà Lê Công Đa, Giới thiệu sơ bộ về cuộc khám phá thủ bản cổ kinh Kharosthi và Phật giáo Càn Đà La. Bài viết này tham chiếu từ tác phẩm của Richard Salomon, Ancient Buddhist Scrolls from Gandhara, University of Washington Press, Seattle, 1999.

(30) Theo Niyanaponika Thera, Cuộc đời Xá Lợi Phất, Nguyễn Điều dịch, 1966. Phần chú giải kinh Cunda, thì Tôn giả Sāriputta viên tịch trước Đức Phật sáu tháng. Hơn nữa, theo kinh Tương ưng, tập V, chương ba, Tương ưng niệm xứ (phần a), phẩm Nalanda, kinh Cunda, và kinh Celam, Đức Phật biết tin Tôn giả Sāriputta viên tịch lúc Ngài đang ở Savatthi, thuộc Kosala. Sau đó không lâu, bên bờ sông Hằng, tại Ukkacelā, thuộc lãnh thổ Vajjii, Đức Phật có lời tưởng niệm về hai đại đệ tử Sāriputta và Moggalāna vừa viên tịch. Theo lịch sử Ấn độ cổ đại, hai quốc gia Kosala và Vajjii có chung đường biên giới với quốc gia Mallā. Như vậy, sự kiện Tôn giả Sāriputta có mặt tại Pāvā, thuộc đất nước Mallā, thuyết kinh Phúng tụng trước khi trở về quê nhà ở làng Nāla, thuộc Magadha để viên tịch, có cơ sở hợp lý về không gian và niên đại.

(31) 阿 毘 達 磨 集 異 門 足 論. quyển 7, phẩm 5, Bốn pháp, phần 2, Nguyên Huệ dịch.

(32) Kinh Trường bộ, kinh Thanh tịnh, số 29, NXB. Tôn Giáo, 2013, tr.578.

(33) Kinh Trường bộ, kinh Phúng tụng, NXB. Tôn Giáo, 2013, tr.690.

(34) 阿 毘 達 磨 集 異 門 足 論. Quyển 20, phẩm 12, Khen, khuyên. Nguyên Huệ dịch.

(35) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Sela, số 92, NXB. Tôn Giáo, 2012, tr.180.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày