Anh bạn tôi và câu chú Đại Bi

GNO - Anh bạn tôi chắc chắn không phải là một nhà văn dù hơn 15 năm trước đây, anh đạt được giải cao nhất trong một cuộc thi văn toàn quốc do báo Thanh Niên tổ chức; anh không xin thẻ báo chí dù anh điều hành và biên tập trang web của một hiệp hội trong 10 năm; anh không được biết như là một tác giả thơ vì chưa bao giờ anh đưa thơ lên báo. Vài năm gần đây anh tham gia một nhóm biên kịch nhưng rất ít bạn bè biết bút hiệu của anh.

Anh thường sử dụng nhân xưng đại danh từ ngôi thứ ba để viết những mẩu chuyện ngắn. Như vậy để rộng đường cho sự chuyển tải nội dung, để thỉnh thoảng có một chút tinh nghịch khi chuyền nhảy giữa ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất trong những câu chuyện đời thường, thỉnh thoảng đượm chút mùi đạo làm duyên; và nhất là để thoải mái nhìn ngắm suy nghĩ của chính mình với cặp mắt của người bên ngoài nhân vật, anh nghĩ thế.

Chín năm trước (2003), anh có hạnh duyên thọ nhận chú Đại Bi tại đạo tràng chùa Phước Hòa (Q.Gò Vấp, TP.HCM). Đạo tràng tổ chức hàng tháng trong 10 buổi tối - từ ngày 19 đến ngày 28 âm lịch - trì tụng mỗi tối 108 biến chú Đại Bi âm tiếng Phạn. Mới đầu anh chỉ tính đi một khóa 10 tối để hồi hướng cầu an cho người anh vợ bị xuất huyết não lần hai đang nằm liệt giường, mũi truyền ống. Nhưng đến khi thôi không tham gia, tính ra anh đã theo đuổi đạo tràng này được khoảng hai năm rưỡi (cuối 2003 - giữa năm 2006). Trong thời gian này, đạo tràng đã trì tụng được khoảng trên 30.000 biến chú Đại Bi. Từ nhân duyên đó, anh thường xuyên trì tụng chú Đại Bi cho đến bây giờ.

Thousand_armed_avalokitasvara_bodhisattva.jpeg

Anh đã tập thành thói quen trì chú Đại Bi mỗi khi ra đường (trì âm Phạn ở đạo tràng và tại nhà, khi ra đường trì âm Hán Việt). Bắt đầu anh niệm 3 lần danh hiệu “Nam mô Đại Bi Hội thượng Phật Bồ Tát” để chư Phật, Bồ tát trong chúng hội Đại Bi chứng minh và cũng để tạo duyên tham gia hội chúng này mai sau.

Trước khi đến đạo tràng Đại Bi chùa Phước Hòa thì ngôi chùa chính mà anh bước vào thềm đạo là chùa Vạn Đức (Thủ Đức). Có lẽ Vạn Đức là một trong số ít ngôi chùa của thành phố tổ chức sớm nhất khóa lễ Pháp Hoa hàng tháng, ngay từ năm 1975 và kéo dài cho đến bây giờ, đã 36 năm. Khóa lễ được tổ chức vào mỗi ngày chủ nhật đầu tháng âm lịch, bắt đầu từ 6 giờ và chấm dứt lúc 16 giờ 30, tụng trọn bộ 7 quyển kinh Pháp Hoa.

Anh dự thời khóa Pháp Hoa đầu tiên trong đời tập tu vào ngày Chủ nhật, 3-9 Quý Mùi (2003). Hồi đó, Vạn Đức còn là một ngôi chùa nhỏ, cổ kính, vườn đất rộng, có chút hoang sơ. Sau này, khoảng tháng 2-2004, chùa được trùng tu trong 2 năm (2004 – 2005) để trở thành ngôi chùa - tháp uy nghi hiện nay.

Trong khóa Pháp Hoa lần thứ hai vào ngày Chủ nhật, 2-10 Quý Mùi, vào lúc nghỉ giải lao buổi sáng, anh ngồi cùng một số bạn trong khoảng sân bên hông chánh điện. Một anh nói về tình trạng bệnh thấp khớp của vợ mình, do dùng thuốc không đúng nên xương chân có triệu chứng bị mụt. Một anh bạn khác nghe nói liền giới thiệu đạo tràng Đại Bi chùa Phước Hòa và khuyên anh này nên đến trì tụng để hồi hướng cho người bệnh.

Nghe như vậy, tự nhiên anh nghĩ đến người anh vợ bất hạnh đã nằm liệt giường hai năm nay, anh tự nhủ trong lòng sẽ đến đạo tràng Đại Bi vào ngày 19 ÂL tới để trì tụng hồi hướng cho anh ấy. Người anh vợ của anh ở Xã lộ 25, Dầu Giây - Đồng Nai, cách Sài gòn khoảng 70 cây số, là vùng kinh tế mới sau năm 75.

Các em ở Sài gòn lên thăm, anh ấy cử động cánh tay trái một cách khó khăn để ra dấu chào hỏi. Cả người bất động, miệng ngọng nghịu, chỉ có đôi mắt là biết nói. Đứng trước một người mà mình biết là đang đi vào ngõ cụt sầu thảm của cuộc đời, mỗi ngày một đến gần hơn điểm kết thúc, lại là người thân của mình, ai mà không đau lòng.

Chủ nhật kế, vợ chồng anh cùng mấy người em về thăm anh ấy. Các con của anh kể cho biết trong buổi sáng chủ nhật tuần rồi, đã xảy ra một sự cố: anh ấy bị ho làm sút ống dây dùng để truyền cháo và nước . Ống này được thọc sâu từ mũi vào thực quản. Khoảng mỗi nửa tháng, cô y tá trong thôn đến làm vệ sinh ống. Mỗi lần như vậy không tránh khỏi đau đớn và trầy xước phần niêm mạc bên trong mũi và miệng, rất dễ bị nhiễm trùng.

Lần này, cô y tá có lẽ vì bối rối thấy khó thể nhét ống vào mũi trở lại nên nói với người nhà thử bỏ không dùng ống nữa xem sao. Người nhà nghe theo. Vợ anh ấy thử đút vài muỗng nhỏ cháo, hóa ra anh ấy nuốt được. Cả gia đình rất mừng vì không những anh ấy thoát được cái ống truyền đã làm khổ anh cả hai năm trời mà anh còn có thể hưởng được ít nhiều mùi thơm và vị ngon của thức ăn (dù chỉ là cháo xay) và thức uống (phần lớn là nước chín).

Anh bàng hoàng khi nghe kể vì thời gian xảy ra sự kiện đặc biệt này cũng chính là buổi sáng Chủ nhật ở Vạn Đức khi anh khởi tâm sẽ đi đến chùa Phước Hòa trì tụng chú Đại Bi. Chỉ mới là khởi tâm chứ chưa thực hiện vì còn đến hơn nửa tháng nữa mới đến khóa lễ (2-10 – 19-10 ÂL Quý Mùi). Phải chăng khi mình chỉ mới khởi lên một niệm tâm tha thiết là đã tức thời có cảm ứng nhiệm mầu?

Từ đó, anh kiên trì theo các thời khóa Đại Bi chùa Phước Hòa, dù mùa nắng hay mưa. Đạo tràng Đại Bi hành lễ từ 18 giờ đến 20 giờ tại đài Quán Âm trên sân thượng lộ thiên của chùa, vào mùa khô hứng đủ loại gió tứ phương và vào mùa mưa là những đợt mưa tầm tã. Khó nhất là làm sao giữ cho đèn nến không bị tắt cả vì gió và vì mưa.

Một điều có thể nói là rất may mắn trong nỗi bất hạnh phải trả nghiệp của người anh vợ của anh là anh ấy có một người vợ hết lòng chăm sóc cho chồng. Người bệnh nằm lâu ngày bất động trên giường dễ bị hoại tử những vùng da thịt ở lưng hay mông hoặc bất cứ nơi nào bị trầy xước. Vợ anh luôn luôn xoa bóp và quan sát những dấu hiệu khác thường trên người chồng. Việc vệ sinh thân thể và chỗ nằm được chị chăm sóc hàng ngày.

Các con của anh, nhất là đứa con trai út còn ở chung nhà, được phân công mỗi giờ lại nâng anh lên để thay đổi thế nằm. Nhờ vậy, trong tám năm nằm bệnh, anh chỉ có những vết thương nhỏ, được chữa trị kịp thời. Chỉ trong giai đoạn vài tháng sau cùng, vào khoảng cuối năm 2005, khi cơ thể không còn sức đề kháng; có một vết lở nhỏ ở lưng, tuy được khống chế ở bên ngoài miệng nhưng bên trong một phần thịt đã bị tiêu hủy, không thể nào hồi phục.

Chắc là vợ của anh ấy cũng có những lúc khóc một mình nhưng khi ở trước chồng, bao giờ chị cũng có những câu nói đùa chơi với anh về thời trai trẻ đào hoa, về những cô gái muốn thay chị làm mẹ những đứa con của anh…Lúc đó anh nghe mà miệng như muốn cười, cánh tay trái còn cử động được một chút thì giơ nhẹ lên mà chỉ vào chị.

Nhưng mỗi ngày trôi qua niềm vui càng ít dần. Không còn vẻ như cười ở miệng, không còn chút ánh linh hoạt nào ở mắt, những ngón tay ngày càng co quắp và bắt đầu ấn sâu vào lòng bàn tay; hai cánh tay và hai ống chân chỉ còn là những que xương khô cứng. Và nhất là nước mắt, anh ấy không còn đủ nước mắt để lăn thành giọt mà chỉ còn đủ làm thấm ướt hốc mắt ngày càng sâu cùng với cái nhìn tuyệt vọng dõi theo khi các em ra về. Anh ấy khóc không thành tiếng. Thật là đau đớn trước những nỗi khổ không nói được nên lời.

Lên thăm anh ấy mà lòng anh thấy quặn đau. Anh cũng như những người thân khác trong gia đình, hết sức muốn chia xẻ sự đau đớn của anh ấy nhưng đâu thể làm được gì khi mỗi thân mỗi nghiệp.

Tháng 12-2005, anh có cơ duyên được đi thăm đất Phật trong một chuyến đi tự tổ chức lấy của một nhóm Phật tử nhân lễ lạc thành Việt Nam Phật Quốc Tự tại Lâm Tỳ Ni (Lumbini - Nepal). Đây là ngôi chùa thứ hai sau ngôi chùa cùng tên tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhagaya - Ấn độ) được thầy Thích Huyền Diệu xây dựng.

Đoàn gồm 43 người trong đó có 6 vị xuất gia và 37 cư sĩ. Tổ chức đoàn đi là vợ chồng một nhà ngoại cảm. Người ta gọi anh ấy như vậy, nhưng anh ấy cho rằng việc tự nhiên có khả năng tìm mộ là một nhân duyên để đưa anh đến với một khả năng tuyệt vời hơn nhiều, đó là khả năng tìm được đến Phật pháp.

Chuyến đi kéo dài 14 ngày, từ ngày 10 đến 23-12-2005. Ngoài mục đích đảnh lễ và tụng kinh tại một số Phật tích ở Ấn Độ và Nepal, đoàn còn tự nguyện làm nhiệm vụ giúp chùa tổ chức lễ lạc thành.

Ngày 19-12-2005 - ngày cuối cùng ở Việt Nam Phật Quốc Tự cũng là ngày khởi đàn hàng tháng của đạo tràng Đại Bi chùa Phước Hòa (19-11 ÂL Quý Mùi). Trong ngôi chánh điện đã được làm lễ an vị Phật, buổi tối hôm ấy, anh thành tâm trì tụng 108 biến chú Đại Bi vào lúc 18 giờ - cùng thời điểm người bạn của anh ở VN bắt đầu thời khóa Đại Bi.

Anh trì tụng một mình trong ánh nến cùng với ba điểm cháy đỏ của ba cây nhang lớn mà anh cắm tại bàn thờ Phật (ở giữa), bệ thờ Đức Bồ tát Địa Tạng (bên trái) và bệ thờ Đức Bồ tát Quán Thế Âm (bên phải). Anh ngồi phía trước bệ thờ của Bồ tát Quán Thế Âm.

Gian chánh điện dường như rộng lớn và thâm nghiêm hơn, anh cảm nhận có một nguồn sức mạnh từ bên trong làm cho tinh thần anh trở nên phấn chấn, oai lực của âm thanh trì chú trong không gian tĩnh mịch dường như cũng được tăng thêm.

Thực ra, anh đã không trì tụng một mình: anh đã cùng trì với những người thân và bạn bè của anh - những người đã không trực tiếp đến xứ Phật nhưng đã gởi tâm của mình cùng những lời nguyện ước theo anh: trước khi đi, số người thân và bạn bè này đã gởi cho anh những phong bì được dán kín, trong đó có ghi những ước nguyện riêng cùng với một ít tóc của mỗi người. Anh đã đưa những phong bì này cho anh trưởng đoàn để anh ấy hóa tại khu vườn Lâm Tỳ Ni - nơi đức Phật đản sanh - cùng với những ước nguyện của người thân của các thành viên khác.

Một người thân mà anh quan tâm nhất lại không làm được điều này. Đó là người anh vợ của anh. Không có tờ giấy nào ghi ước nguyện, cũng không có một lời nào được nhắn gởi.  Nhưng anh đã mang ánh mắt nhìn tuyệt vọng của anh ấy vào tâm của mình trong thời khóa lễ nơi đất Phật.

Phần hồi hướng, anh thành tâm khấn nguyện Bồ tát Quán Thế Âm gia hộ cho anh ấy: “Nếu nghiệp hết xin cho anh ấy được tiêu trừ tật bệnh; nếu còn nghiệp xin cho anh ấy được ra đi nhẹ nhàng, không đau đớn”.

Từ chỗ anh ngồi, anh thấy tàn của hai cây nhang ở bàn thờ Phật và ở bệ thờ của Đức Địa Tạng uốn cong queo, còn cây nhang ở bệ thờ Đức Quán Thế Âm - ngay trước mặt anh vẫn thẳng. Anh nghĩ  dù sao công phu trì tụng của mình cũng đã có một phần cảm ứng.

Tuy nhiên, khi anh đứng dậy đi đến bệ thờ Đức Quán Thế Âm để tắt nến thì thật là bất ngờ, anh thấy tàn cây nhang trên bệ thờ Đức Quán Thế Âm cong tròn nửa vòng, gần như cùng trên một mặt phẳng hướng ra phía trước. Sở dĩ khi ngồi anh không nhận ra vì tàn nhang cong cùng với hướng ngồi của anh, nên dưới ánh nến không đủ sáng anh đã thấy tàn nhang vẫn thẳng.

Anh đứng lặng người, một lúc sau mới trấn tĩnh được nỗi xúc động: tàn của cả ba cây nhang đều cong, anh nghĩ rằng tâm thành của anh đã được Chư Phật, Bồ tát chứng minh. Đặc biệt là Đức Quán Thế Âm còn như muốn nhắn gởi anh điều gì.

Ngày 21-12-2005 (21-11 ÂL Quý Mùi), ở Kathmandu - Nepal, tại một khu du lịch, anh gọi được điện thoại internet về nhà. Tình hình ở nhà bình thường. Ngày hôm sau (22-12-2005), anh gọi về lần nữa thì người nhà cho hay đã nhận được tin anh vợ của anh mất ngay sau khi nói chuyện với anh hôm qua. Ngày 23-12-2005, đoàn trở về VN. Ngày hôm sau, anh vừa kịp lên Dầu Giây đưa đám của anh ấy.

Như vậy người anh vợ của anh mất vào ngày 21-12-2005 (21/11 Quý Mùi), hai ngày sau khi anh khấn nguyện. Anh ấy mất hầu như không đau đớn nhiều: trong lúc ăn cháo, anh ho vài tiếng và rướn người lên như bị ngộp thở. Vợ anh ấy chưa kịp chạy đến nhà cô y tá ở ngay thổ cư phía trước mặt thì anh đã ra đi. Còn trong lúc chộn rộn lau người thay quần áo cho anh ấy, một người nào đó trong hàng xóm đã mặc cho anh chiếc áo lam - một người mấy chục năm qua chưa hề bước chân đến cửa chùa.

Từ đó, anh cảm nhận sâu sắc lòng từ bi của Đức Quán Thế Âm, người nghiêng mình lắng nghe nỗi thống khổ của muôn loài ngập tràn trên những đợt sóng dồn dập của sinh tử, người dùng vô vàn phương cách để tạo ra những cơ duyên nhằm cứu vớt chúng sinh vượt thoát luân hồi.

Hạnh duyên đến với câu chú Đại Bi, với anh bây giờ, chính là thực tập hạnh của Đức Quán Thế Âm: hạnh lắng nghe và hạnh cứu độ. Con đường tập tu chắc chắn còn dài. Anh vẫn còn đang học. Anh  vẫn còn đang học.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày