Đi tìm tự tánh

Đi tìm tự tánh
0:00 / 0:00
0:00
GN - Tự tánh là gì? Nhiều khi ta nghĩ tự tánh là cái gì bí nhiệm, nằm ngoài kinh nghiệm của ta, rồi đi tìm nó cũng trong những phương cách rất bí nhiệm!

Đạo Phật không nói đến điều gì huyền bí cả. Tất cả rất thực tế, ai cũng có thể chứng nghiệm được. Đạo Phật chỉ nói sự thật, sự thật diễn ra trước mắt, trong kinh nghiệm. Ai chưa thấy cái gì là sự thật, chưa tin điều gì là sự thật, hãy quan sát và thực nghiệm chúng trong chính tự thân của mình thì sẽ thấy ra sự thật, Đức Phật đã nói như vậy. “Nói biết như thật và thấy như thật không có nghĩa là biết thấy bằng tri thức những sự kiện hoặc chân lý nằm ngoài giới hạn kinh nghiệm của ta, mà chính là biết thấy những cơ sự hiển nhiên diễn ra trong chính ta” (D. Suzuki).

Tự tánh cũng vậy, cũng bằng sự trải nghiệm tự thân mà thấy. Khi tâm đối cảnh mà phản ứng yêu ghét, ấy là niệm yêu niệm ghét sinh khởi. Khi chúng sinh khởi mà ta thất giác đồng hóa mình với cái yêu cái ghét đó và để cho chúng kéo mình đi thì ta không thể thấy được tự tánh của ta. Nhưng khi chúng sinh khởi mà ta giác biết dừng lại, không để chúng kéo mình đi thì liền ngay đó thấy được tự tánh của ta. Tự tánh ấy chính là chơn giác, là tánh biết sáng suốt của mình. “Tự tánh là tự chứng, là cái biết của chính mình” (Taitaro). Hóa ra tự tánh không phải khó thấy! Chỉ cần bạn tỉnh thức với mọi niệm khởi thì tự tánh luôn hiển lộ sáng ngời. “Đạo Phật dạy cho ta biết tiếp xúc với tự tánh của ta, và để cho nó hiển lộ ra một cách tự nhiên. Có nghĩa là ta phải tỉnh thức và nhìn thấy sự vật như chúng thật sự như là” (Jonkabat Zinn). “Nhìn thấy sự vật như chúng thật sự như là”, nghĩa là gì? Nghĩa là đừng phản ứng sinh niệm yêu ghét về sự vật. Mà hễ có phản ứng sinh niệm thì nên giác biết dừng lại, đừng để nó lôi mình đi. Thế thôi, là thấy tự tánh! Cho nên, vấn đề không phải là khởi niệm hay không khởi niệm mà khi khởi niệm có giác biết hay không mà thôi.

Ai đọc Pháp bảo đàn kinh cũng biết câu thiền ngữ của Lục tổ Huệ Năng khi ngài khai thị cho thầy Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của ông?”. Thế nào là không nghĩ thiện, không nghĩ ác? Hành động mà không nghĩ đến hậu quả, bất chấp đạo đức? Tự do bất tuân đạo lý? Thiện ác ở đây không phải là khái niệm đạo đức. Thiện ác là nói đến cái tâm vọng tưởng phân biệt nhị nguyên, cái tâm luôn tạo ra đối kháng giữa hai đối cực: trong ngoài, sáng tối, phải trái, đúng sai, tốt xấu… Hễ có phân biệt chấp trước thì ngay lập tức trong tâm tạo ra lực đẩy và lực kéo. Tốt thì ta kéo vào, xấu thì ta đẩy ra. Chính cái tâm tạo lực giằng co kéo đẩy ấy làm cho ta trở nên mệt mỏi, căng thẳng, bất an và phiền muộn. “Bao giờ sống còn có nghĩa là tranh đấu thì thế gian này chẳng qua là một trường đau khổ. Tranh đấu là gì, nếu không là sự xô xát giữa hai đối lực mà bên nào cũng cố chiếm phần hơn. Nỗ lực để đạt được ánh sáng bằng cách xua tan bóng tối là nhị nguyên và không bao giờ đưa hành giả đến chỗ lĩnh hội chân chính về tâm” (D.Suzuki). Chỉ khi chấm dứt sự phân biệt, tức dừng lại cái tâm tạo ra xung đột, đối kháng giữa hai đối cực nhị nguyên, ta mới thấy được bản tâm uyên nguyên của mình, cái mà ngài Huệ Năng gọi là bản lai diện mục hay mặt mũi xưa nay; khi đó ta mới thật sự đạt đến chân an lạc, chân hạnh phúc. “An lạc phát sinh từ sự chấm dứt của ý niệm tranh chấp giữa chánh và tà” (D. Suzuki).

Đi tìm tự tánh là đi tìm sự tự do nội tại. Con người bị ràng buộc nhiều thứ, nhưng ràng buộc nhất, thâm căn cố đế nhất là tư duy nhị nguyên. Thế nào là đúng, thế nào sai; thế nào là phải, thế nào là trái; thế nào là đẹp, thế nào là xấu… Ôi chao, cả một rừng nhận thức suy lý nhị nguyên. Đầu óc duy lý của con người luôn đặt ra những tiêu chuẩn cho cái đẹp, những quy định cho cái đúng, cái sai, rồi chấp chặt vào đó cho là chân lý mà ai có nói khác đi là không thể chấp nhận được.

Tinh thần tự do phóng nhiệm của Phật giáo không cho phép ta bị nô lệ cho những tập quán chấp trước nhị nguyên ấy. Tinh thần tự do ấy luôn muốn phá vỡ thành trì của tri thức luận lý. Mà tiên phong trong mặt trận này phải nói là Thiền tông. Các vị thiền sư luôn đi đầu trong việc đả phá sự bám chấp vào nguồn tri thức duy lý ấy. Cho nên trong các ngữ lục thiền đầy dẫy những lời nói phi lý, ngược đời, vô nghĩa; câu hỏi và câu trả lời không ăn nhập gì với nhau. Đơn cử một chuyện thiền: “Một vị Tăng hỏi Thiền sư Bảo Tích: ‘Đạo là gì?’. ‘Vào đi!’, sư đáp. ‘Con không thể hiểu được’. ‘Ra đi!’”.

Đọc chuyện thiền mà đọc với cái đầu theo thói quen suy lý ta sẽ không thấy hợp với lý luận, đúng với lý lẽ. Cho nên đọc thiền phải vứt cái đầu lý luận đi, chỉ đọc với cái tự do trong tâm, thì mọi sự sẽ sáng ngời!

Thế nào là đúng, thế nào là sai, thế nào là đẹp, thế nào là xấu…, ta cứ loay hoay bị ràng buộc và hạn cuộc trong các khái niệm và phạm trù ấy mà không có sự tự do tuyệt đối nội tại. Ngài Huệ năng nói: “Điểm chính là đừng suy lường về thiện hay ác, vì điều ấy khiến ta bị hạn cuộc. Hãy để cho tâm trở về tự thể vốn thường thanh tịnh và tự biểu hiện những diệu dụng hằng sa của chính nó”. Tự do tuyệt đối khi không còn bận tâm về việc suy lường đạo lý nữa không phải là sự buông thả phóng túng của ý thức mà chính là sự hoạt dụng tự nhiên của tâm bản nhiên trong sáng rỗng lặng mênh mông sâu thẳm. Tâm bản nhiên ấy là sự sống đích thực xưa nay vốn không thiện ác, tốt xấu. Khi bạn đã thực sự sống với tâm bản nhiên ấy rồi thì mọi hành động tự nó là tự do và hoàn hảo nên không còn ý niệm thiện hay ác gì nữa.

Tự do ấy, khi ứng vào đời sống xã hội, ngài Huệ Năng gọi là vô niệm. Vô niệm là tự do. Vô niệm không phải là không có tư tưởng. Có tư tưởng nhưng tư tưởng ấy không dính mắc vào đâu cả. Hãy nghe ngài Huệ Năng định nghĩa về vô niệm, sẽ thấy vô niệm là tự do như thế nào. “Vô niệm là gì? Vô niệm là thấy tất cả pháp mà không dính mắc pháp nào”. Vô niệm là không vướng kẹt. Không vướng kẹt thì tự do. Thấy mà không vướng kẹt nơi cái thấy thì tự do trong cái thấy. Nghe mà không vướng kẹt nơi cái nghe thì tự do trong cái nghe. Hành động mà không vướng kẹt nơi hành động thì tự do trong hành động.

Thế nào là tự do không vướng kẹt? Nghe một lời nói không hay về mình mà ta phản ứng giận dữ, ấy là ta bị kẹt trong cái nghe, không có tự do trong cái nghe. Thấy một người tỏ thái độ khinh bỉ mình mà ta không giữ được lòng bình tĩnh, ấy là ta bị kẹt trong cái thấy, không có tự do trong cái thấy. Làm được một chút việc thiện, tạo được một chút công đức mà tự hào cho mình là người cao thượng, đạo đức hơn người, ấy là ta bị kẹt nơi hành động của ta.

Tự do không vướng kẹt còn có nghĩa là làm việc gì thì chú tâm vào việc ấy, gọi là chánh niệm trong từng hành động, trong từng việc làm, không vướng víu gì đến sự việc khác, ý nghĩ khác. Rửa chén bát thì chỉ biết là rửa chén bát. Quét nhà chỉ biết là quét nhà. Ăn cơm chỉ biết là ăn cơm. Giờ nào việc nào thì chỉ biết việc ấy, không muốn việc khác, không mong mau rồi. Đang quét nhà mà muốn đi xem phim hay mong quét cho mau để được uống trà, ấy đều là bị vướng kẹt trong hành động, không có tự do trong hành động.

Người đạt tự do không phải sống khác người trong hành động nhưng hành động nào cũng tự do. “Khi toàn thể Tăng chúng của Bách Trượng đang cuốc đất, một vị Tăng nghe tiếng trống báo hiệu giờ ăn cơm, sư liền buông cuốc rồi cười ha hả bước đi”. Tiếng cười đó là tiếng cười của tự do. Đến giờ ăn, buông cuốc đi ăn, đến giờ ngủ, rũ bỏ tất cả để đi ngủ, không có tự do nào hơn! Xin dẫn cho hết câu chuyện: “Thấy vị Tăng buông cuốc rồi cười ha hả bước đi, Thiền sư Bách Trượng nhận xét: ‘Gã ấy thật lanh lợi. Đó là lối nhập đạo theo pháp môn của Quán Thế Âm’. Khi sư trở về tu viện, sư cho gọi vị Tăng hồi nãy rồi hỏi: ‘Hồi nãy, khi nghe tiếng trống, ông nhận ra đạo lý gì?’. ‘Chẳng có gì, nghe tiếng trống báo giờ ăn cơm, con trở về ăn cơm thôi’, vị Tăng đáp. Lần này, câu trả lời khiến sư cười vang”. Tiếng cười của trò là tiếng cười của tự do. Tiếng cười của thầy là tiếng cười tán thưởng sự tự do ấy.

Tự do nội tại, như thế, không có nghĩa muốn gì làm nấy, bất chấp các giá trị đạo đức, luân lý chuẩn mực của xã hội. Người có tự do nội tại vẫn tuân theo cái đúng mà xã hội đã quy ước, vẫn tránh cái sai mà xã hội đã quy định. Nhưng theo cái đúng mà không bị kẹt vào cái đúng, tránh cái sai mà không thấy gì là mất tự do. Đó mới là tự do, là vô niệm, là thấy tự tánh.

Thấy tánh là thấy Phật, thấy Phật đản sanh trong lòng mình!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Ảnh: Phùng Anh Quốc

Đức Phật dạy lìa xan tham

NSGN - Chữ “xan tham” là cách dịch của Thầy Minh Châu, với chữ xan là keo kiệt, và tham là tham muốn. Cả hai chữ xan và tham đều có nghĩa gần nhau, đều là chấp có cái gì là “ta” và “của ta” và “muốn gì cho ta”.

Thông tin hàng ngày