NSGN - Đã từ lâu, đối với người phương Đông chúng ta, những trào lưu triết học được du nhập từ phương Tây vẫn luôn được xem là một cái gì đó có vẻ “cao siêu”, “hàn lâm” chỉ dành cho một số ít người có tư chất đặc biệt (!). Thường thường, hễ cái gì khó hiểu thì hay được chúng ta xem như thuộc “tầm cỡ triết học”, khiến triết học đã bí hiểm lại càng thêm bí hiểm, để bàn dân thiên hạ phải “kính nhi viễn chi”, mặc dù chúng ta hiếm khi thấy được một chút gì có thể gọi là ảnh hưởng của nó trong đời sống thực, ngoài một số thuật ngữ đao to búa lớn đầy rối rắm, nhưng nội dung thường sáo rỗng và rất xa lạ với nếp suy tư phương Đông.
Nishi Amane - Người đưa triết học phương Tây vào nền giáo dục chính thống của Nhật Bản
Tác phẩm Phản triết học nhập môn (反哲学入门) của Gen Kida đến với tôi khá tình cờ, từ một nhà xuất bản chuyên in các tác phẩm triết học phương Tây. Tôi vốn là kẻ “ngoại đạo” về triết học phương Tây, chỉ thỉnh thoảng đọc đôi chút để thử đối chiếu với tư tưởng Phật giáo, nên không quan tâm chi lắm đến những cái gọi là trào lưu triết học. Cái trò triết thuyết sau đánh đổ triết thuyết trước, trong lịch sử triết học phương Tây, theo kiểu “Trường giang hậu lãng thôi tiền lãng” nghe ra đã quá quen thuộc, đến mức nhàm. Cho nên chủ đề “phản triết học” nghe ra cũng hấp dẫn. Thật tiếc là nguyên tác bằng tiếng Nhật thì tôi không đọc được, đành nên phải đọc qua một ngôn ngữ trung gian. Khi đọc một tác phẩm có giá trị, bất kỳ người đọc nào cũng đều muốn đọc được từ nguyên tác để, trong một chừng mực nào đó, có thể hiểu được tác phẩm chính xác hơn. Đọc từ nguyên tác chưa chắc ta đã nắm bắt được nguyên ý của tác giả, nhất là tác phẩm bàn về triết học, huống chi đọc qua một bản dịch trung gian mà lại là bản dịch tiếng Trung, vốn là một ngôn ngữ không có sở trường trong việc diễn đạt tư tưởng triết học phương Tây. Đó là chưa kể tác phẩm lại được in bằng loại chữ giản thể phổ biến hiện nay. Với tôi, đây là loại chữ đã góp phần hủy diệt phần nội hàm thâm thúy trong loại chữ phồn thể truyền thống, cắt đứt mạch ngầm tư duy nội tại của dòng lịch sử tư tưởng Trung Quốc, cũng như của những quốc gia đã từng chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc.
Nền văn hóa châu Âu, khi theo chân dòng cuồng lưu xâm lược của các cường quốc phương Tây, đã tràn vào phương Đông như một trận hồng thủy và phá toang những cánh cửa suốt mấy trăm năm im ỉm khóa kín của thế giới phương Đông. Khi vừa sực tỉnh thì phương Đông đã phải đối mặt với những họng súng đen ngòm ngay ngoài đầu ngõ. Những lời bình phẩm về văn chương, thi phú bỗng trở nên lạc lõng giữa tiếng đại bác ì ầm, và những lời rao giảng về đạo học rồi cũng dần bị lép vế theo tiếng bom đạn vang rền của nền văn minh cơ giới. Nền văn hóa châu Âu đã tràn vào và giữ vai trò của một chủ nhân ông, ở tại một nơi mà lẽ ra nó chỉ là khách, một người khách không mời mà tới. Trong cuộc giao thoa văn hóa vĩ đại đó, giới học giả lỗi lạc phương Tây đã vô cùng kinh ngạc và thán phục trước kho tàng minh triết từ những cổ thư Ấn Độ, Trung Quốc, thì ngược lại, giới học giả phương Đông, do choáng ngợp trước sự chiến thắng vượt trội không thể phủ nhận được của nền kỹ thuật phương Tây, đã không thể tránh khỏi mặc cảm tự ty, thấy mình thua kém. Từ mặc cảm thua kém về khoa học kỹ thuật, họ đâm ra mặc cảm thua kém về đủ mọi thứ, kể cả văn chương nghệ thuật. Bởi thế, những thế hệ trước cứ hăm hở chạy theo các trào lưu văn hóa, các trào lưu triết học phương Tây, xem như đó là một cái gì rất đỗi cao siêu, rất đỗi tân kỳ. Bên cạnh sự chạy theo đuôi vì mặc cảm tự ty đó, một phần là cũng do họ mong muốn có một sự cách tân. Nào là chủ nghĩa hiện sinh, duy lý, nào là hiện tượng học, nào là biện chứng pháp, nào là hậu hiện đại, v.v... và v.v... Suốt một thời gian dài, triết học phương Tây mặc nhiên trở thành món “thời trang trí thức dạng cao cấp” chỉ dành riêng cho giới tinh hoa của trí tuệ (!), và dĩ nhiên nội dung của nó được xem như vượt lên trên đám quần chúng tầm thường, mặc dù trên thực tế, ai cũng cảm nhận được triết học hầu như là một thứ thực phẩm tinh thần vô bổ, không có giá trị về phương diện tâm linh đã đành, mà cũng chẳng một giá trị thiết thực cụ thể nào để định hướng cho con người sống theo đạo lý. Nhưng nó vẫn được cho là có giá trị “cao siêu” vì là sản phẩm của ... Tây, và vì quần chúng không sao hiểu nổi. Hễ đọc được hay viết được một cuốn sách có liên quan đến triết học là ta xem như đã thực hiện một cái gì đó rất đỗi hơn người. Nếu như cái gọi là “triết học” đó lại có nguồn gốc từ Lào hay Campuchia thì có lẽ cũng chẳng được mấy ai xem trọng.
... Các phần tử trí thức Nhật Bản đương thời đối với văn hóa phương Tây thì mang tự ty mặc cảm, còn đối với quần chúng phổ thông thì lại tự tôn, thấy mình ưu việt. (tr.79)
Giữa dòng cuồng lưu theo đuôi mù quáng đang diễn ra sôi động ở khắp xã hội phương Đông thời trước, ở Ấn Độ có Đại sư Vivekananda (1863-1902), ở Nhật Bản có Đại sư Suzuki (1870-1966), bằng văn tài tuyệt diệu và những sở đắc thâm viễn, đã mở ra cho phương Tây thấy được những phương trời tư tưởng huyền ẩn của thế giới phương Đông. Và ở Việt Nam cũng xuất hiện hai nhà tư tưởng lỗi lạc là Trần Trọng Kim (1883-1953) và Nhượng Tống (1904-1949). Bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim và bản dịch Nam Hoa kinh của Nhượng Tống, dù không có ảnh hưởng to lớn như những tác phẩm của hai vị đại sư kia, nhưng chúng vẫn sừng sững như hai ngọn cao phong tuyệt bích, chặn đứng dòng cuồng lưu đó giữa xã hội Việt Nam, và âm thầm dìu dắt những ai muốn tìm về với cõi đạo phương Đông chân chính. Sau Đại sư Suzuki gần nửa thế kỷ, ở Nhật Bản lại xuất hiện Gen Kida (1924-2004), một nhà tư tưởng phương Đông đã thấu hiểu triết học phương Tây, rồi đứng từ phương Đông để nhìn bao quát lại thế giới triết học phương Tây.
Sử tử hống thời phương thảo lục,
Tượng vương hồi cố lạc hoa hồng.
Dù cái “nhìn lại” của Gen Kida chưa phải là “Tượng vương hồi cố”, nhưng cũng hiếm có ai đủ thông tuệ như ông, sau khi thấu hiểu và giảng dạy triết học phương Tây, đã can đảm nêu ra vấn đề: Thực chất triết học là gì? Liệu triết học có phù hợp với phương Đông hay không? Và có ích gì cho phương Đông hay không?
Ta hãy thử thong dong nghe ông giải đáp, ngay từ lời tựa:
Tôi học “triết học”, rồi giảng dạy “triết học” tại trường đại học, nhưng vẫn luôn cho rằng công việc suy tư nghiên cứu của bản thân hoàn toàn khác biệt, về bản chất, với phương thức suy tư theo “triết học” truyền thống của môi trường văn hóa phương Tây. Thỉnh thoảng có người chỉ ra rằng Nhật Bản không hề có triết học, tôi hoàn toàn tán đồng quan điểm đó. “Triết học”, suy cho đến chỗ tận cùng, chỉ là phương thức suy tư phản tự nhiên của môi trường văn hóa phương Tây mà thôi. (tr.XII)
Càng đọc, chúng ta sẽ càng bị lôi cuốn, không chỉ bởi nội dung sâu sắc nhưng được trình bày bằng một văn phong bình dị, mà còn bởi những lời tâm sự rất chân thành của tác giả trong quá trình học tập và giảng dạy triết học. Cái nhìn của tác giả là cái nhìn thông tuệ của một học giả phương Đông nên nội dung tác phẩm gợi cho chúng ta rất nhiều điều đồng cảm. Ngay từ khi còn là sinh viên năm đầu đại học - tôi muốn nhấn mạnh ở điểm này -, tác giả đã bỏ công đọc Sein und Zeit của Heidegger và Kritik der reinen Vernunft(2) của Kant trong nguyên tác tiếng Đức, hai tác phẩm được xem là khó đọc vào bậc nhất của triết học phương Tây được viết bằng một trong những ngôn ngữ thuộc loại khó học nhất của châu Âu. Chỉ một chi tiết nhỏ đó thôi cũng cho ta thấy trình độ cùng lòng say mê học hỏi và tinh thần nghiên cứu nghiêm túc của ông trong quá trình tìm hiểu triết học phương Tây như thế nào rồi. Và ở trong một mức độ nào đó, nó cũng nói lên được phần nào giá trị những tác phẩm của ông. Đối với một nhà nghiên cứu nghiêm túc và có trình độ, đọc sách ngay từ nguyên tác hiển nhiên là điều kiện tiên quyết để tìm hiểu một tác giả hay một tác phẩm. Đặc biệt trong lĩnh vực triết học. Không đọc nguyên tác để đặt mình vào cùng một dòng suy tư với tác giả, qua ngôn ngữ, thì liệu ta có thể hiểu được tác giả chăng? Nhưng ở Việt Nam, số lượng những nhà nghiên cứu có đủ trình độ làm được điều này trong các công trình biên khảo chưa phải là nhiều. Chúng ta thậm chí còn thấy không ít các luận án tiến sĩ khoa học xã hội nhân văn mà những tiêu đề thừa sức giúp Azit Nêxin cho ra đời hàng trăm truyện ngắn, với danh mục tham khảo toàn sách giáo khoa tiếng Việt, dù đề tài nghiên cứu đôi khi ở tận Tây, Tàu!
Dù tác giả là một giáo sư giảng dạy triết Tây tại một đại học danh tiếng ở Nhật, nhưng tác phẩm của ông có thể đã gây “sốc” cho giới học giả Nhật Bản. Vì nó như một nhát búa đập thẳng vào căn bệnh trầm kha sính triết học và sùng bái phương Tây của giới trí thức Nhật Bản đương thời. Trong suốt tác phẩm, những điều ông nói là nói về Nhật Bản, nhưng ta vẫn dễ dàng cảm nhận nó cũng có giá trị chung cho hầu hết các quốc gia Đông Á.
Trước khi quyết định đảm nhận môn triết học, tôi đã rõ mười mươi rằng trên thực tế, triết học chẳng có chút ích gì cho cuộc sống hiện thực cả... Không thoát ra khỏi được cái “biển khổ” triết học, đúng là vạn phần bất hạnh. Dù tôi chưa từng hối hận là đã chọn môn triết, nhưng cũng có lúc thầm nghĩ giá như không bị triết học trói buộc thì có phải là ta đã tự tại, thong dong biết mấy. Triết học quả là một chứng bệnh nan y. Vì tôi đã chọn triết học làm nghề nghiệp trọn đời, nên thấu hiểu tường tận “độc tính” của nó. Bởi thế, tôi cho rằng khuyên người khác học triết học, chẳng khác nào khuyên họ uống thuốc độc. (tr.10)
Chỉ một câu đó thôi, của vị giáo sư giảng dạy triết học chuyên nghiệp tại một đại học danh tiếng của một đất nước có một nền giáo dục tiên tiến và nghiêm túc như Nhật Bản, cũng đủ khiến người đọc cảm thấy thích thú, và không khỏi tò mò. Khi đọc Gen Kida, ta sẽ tỉnh ngộ ra rằng: cái gọi là “triết học”, mà bao năm qua được xưng tụng đó, chỉ là một phương thức suy tư riêng biệt của châu Âu, nó chẳng có phù hợp chi với người phương Đông cả. Ý nghĩa uyên nguyên của hai chữ “triết học” đã bị hiểu sai lệch, như triết gia Heidegger đã chỉ ra trong tác phẩm Was ist das - die Philosophie? (Triết học là gì?), mà tác giả dẫn chứng lại trong tác phẩm của mình. Trong buổi đầu tiếp cận với triết học phương Tây, Việt Nam theo đuôi Trung Quốc, Trung Quốc thì theo đuôi Nhật Bản, còn Nhật Bản thì theo đuôi phương Tây, mà điều oái ăm là cuộc theo đuôi đó đã sai lệch ngay từ ban đầu!
Nhà tư tưởng Nhật Bản có công nghiên cứu triết học phương Tây và du nhập triết học phương Tây vào nền giáo dục chính thống của Nhật Bản sớm nhất là Nishi Amane (Tây Chu 西 周, 1829-1897). Nishi Amane là con trai của một bác sĩ Đông y. Năm 1853, sau khi học Nho giáo tại Osaka, ông được gửi đến Edo để học thêm, với mục đích là trở thành thông dịch viên để tiến hành công việc kinh doanh với thế giới bên ngoài, thông qua các thương nhân Hà Lan có trụ sở tại Nagasaki. Nhiệm vụ của ông cũng bao gồm việc dịch sách châu Âu sang tiếng Nhật. Năm 1862, Nishi được gởi sang Hà Lan học tập để tìm hiểu về khoa học chính trị, luật pháp và kinh tế của thế giới phương Tây. Ông là người đã nỗ lực tạo cầu nối cho nền triết học phương Tây tiếp xúc được với phương Đông.
Trong buổi ban đầu giao thoa văn hóa, khi dịch sách, điều khó khăn nhất là tìm cho ra những thuật ngữ tương đương giữa hai nền văn hóa vốn khác biệt nhau từ bản chất. Danh dùng để chỉ thực. Thực không có thì lấy đâu ra danh? “Triết học” chính là một trong những cái thực không có đó, trong nếp suy tư phương Đông. Ta không thể tìm ra một cái danh trong nền văn hóa của ta để chỉ một cái thực của một nền văn hóa khác, nếu như cái thực đó không hề tồn tại trong nền văn hóa của ta, trong hiện thực lẫn tư duy. Họ không thể nào dịch được, bởi vì đó là những cái thực không hề tồn tại trong đời sống của họ. Thường thì khi dịch, trong những trường hợp như thế, người ta dùng cách phiên âm. Chẳng hạn như kinh Phật bản tiếng Hán phiên âm Prajñāpāramitā thành Bát-nhã-ba-la-mật, Bodhisattva thành Bồ-đề-tát-đỏa, v.v... Ở nước ta vào thời trước, vẫn có nhà văn dùng từ “tiểu ri” để chỉ từ théorie (lý thuyết) trong tiếng Pháp. Ở đây, chúng ta không thể không trân trọng ghi nhận công lao của cố Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) với cuốn tự điển Danh từ Khoa học xuất bản năm 1942, đặt nền tảng cho những thuật ngữ chuyên dụng của nền giáo dục Việt Nam hiện đại.
Hiện nay, bất kỳ người nào có trình độ phổ thông cũng đều có thể biết là từ “triết học” trong tiếng Việt là cách dịch của từ “philosophy” trong tiếng Anh, hay “philosophie” trong tiếng Pháp hoặc tiếng Đức. Và các từ đó, trong ngôn ngữ phương Tây, lại bắt nguồn từ cách phiên âm của từ philosophia trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “yêu thương tri thức”, “yêu thương minh triết”. Philosophia là từ kết hợp philein (yêu thương) với sophia (tri thức, minh triết). Đại khái là vậy. Quá trình hình hành nên từ philosophia trong tiếng Hy Lạp lại khá rối rắm, có lẽ những người không chuyên nghiệp như chúng ta cũng chẳng nên bận tâm(3). Nhưng vào thời kỳ của Nishi, tìm ra được một thuật ngữ tương đương trong tiếng Nhật để dịch philosophy quả là bế tắc.
Theo Kenda, trong khóa giảng đầu tiên về triết học phương Tây, Nishi đã dịch philosophy là “hy triết học 希 哲 學”. Chữ “hy” này không phải là “Hy” trong Hy Lạp, mà có nghĩa là “khát vọng” “kỳ vọng” “ngưỡng mộ”, “hâm mộ”, “ái mộ”, v.v... hẳn là được dùng để diễn tả cái ý philein trong philosophia. Nishi đã vay mượn chữ hy từ chương Chí học 志 學 trong tác phẩm Thông Thư 通 書 của một Nho gia lỗi lạc đời Tống là Chu Đôn Di. Câu đó là “Sĩ hy hiền 士 希 賢” (Kẻ sĩ hâm mộ người hiền.) Dựa trên ý nghĩa gốc của từ philosophia, Nishi loại bỏ chữ hiền vốn mang nặng ý vị Nho gia, rồi thay bằng chữ triết 哲 có cùng nghĩa, cuối cùng dịch thành “hy triết học”, và ông cho đó là cách phiên dịch tương đối chuẩn xác. Nhưng không hiểu do đâu, sau khi Nishi Amane từ Hà Lan về nước, vào thời Minh Trị Thiên Hoàng, ông lại bỏ chữ hy đi, giản lược “hy triết học” thành “triết học”, và được dùng đến tận hôm nay. Ý nghĩa “yêu thương” trong từ “philosophia” Hy Lạp, vốn được biểu đạt qua chữ “hy”, giờ đã bị loại bỏ, có nghĩa là thành phần quan trọng đã bị quên lãng hoàn toàn. Thành ra, từ “triết học” của Nishi Amane chẳng dính dáng gì đến từ gốc philosophia trong tiếng Hy Lạp cả.
Tác giả đã chỉ ra:
Bản thân từ “triết học” là cách dịch rõ mười mươi là sai lầm ngay từ ban đầu của Nishi Amane tiên sinh, cho nên đem triết học biến thành một cái gì đó cao siêu thì đúng là quá đỗi buồn cười. (tr.24)
Nhưng vẫn luôn có những người, Tây cũng như ta, quen bệnh sùng bái hai chữ “triết học”, xem triết học như là “khoa học của mọi ngành khoa học”, và triết gia như là những nhà thông thái, nắm bắt được tri thức của mọi lĩnh vực (!). Cho nên khi khảo cứu những gì liên quan đến đạo đức, nhân sinh quan, thế giới quan, v.v... thì không ít người lại cố diễn đạt bằng một ngôn ngữ rối rắm với nhiều thuật ngữ mang tính “hàn lâm”, “kinh viện” để nâng nội dung lên tầm “triết học”. Làm như “triết học” là lá bùa đảm bảo cho tính “cao siêu” của nội dung! Đọc Gen Kida để thấy những cách suy tư kiểu như “Xây dựng con đường triết lý Việt Nam”, “Tư tưởng triết học trong thơ của tác giả X.”, “Triết lý Thiền” v.v... đều sai lệch ngay từ cơ bản.
Có người thường bảo Nhật Bản vốn không có triết học chân chính, tôi thì ngược lại, cho rằng chính vì Nhật Bản không có cái gọi là triết học theo kiểu phương Tây nên hóa ra lại hay. Đương nhiên, Nhật Bản cũng có nhân sinh quan, cũng có tư tưởng về đạo đức và tôn giáo, nhưng đó là những thứ mà phương Tây dùng làm chất liệu cho triết học, chứ chúng không phải là bản thân triết học. (tr.11) [dòng chữ in đậm là do người viết muốn nhấn mạnh. HNC]
...
Cho nên chúng ta không có được đầy đủ mô thức suy tư đó - tức triết học - thì cũng là chuyện thường tình. Bởi thế người Nhật hoàn toàn không cần phải làm ra vẻ là có triết học, hay giả bộ hiểu triết học làm quái gì. (tr.29)
Theo tác giả, “phản triết học” ở đây không có nghĩa là hủy bỏ triết học, mà là đưa triết học trở về uyên nguyên chân chính của nó trong cõi tư tưởng Hy Lạp ban sơ. Ở cõi đó, những ai đã từng tiếp xúc được với các trang cổ lục phương Đông ngay từ buổi ban đầu đọc sách, nhất là kinh điển Phật giáo, có thể tìm được một đôi điều tương cảm, và có thể có cơ duyên nghe ra sự tương ứng giữa cõi tư tưởng Hy Lạp uyên nguyên với “pháp nhĩ tự nhiên” trong cõi đạo sơ thủy phương Đông. Ở đây, ta nghe ra sự hòa điệu với Đại sư Suzuki: “Quan điểm vạn pháp vô sinh (anutpāda), trái lại, cho rằng không có gì sinh ra bởi quan hệ nhân quả, mà vạn pháp vẫn tự nhiên nhi nhiên trước khi có sự tác động của luật nhân quả”.(4)
Đây cũng là một tác phẩm trình bày lịch sử triết học phương Tây từ sơ thủy đến hiện đại một cách đơn giản mà súc tích, bằng một loại ngôn ngữ tương đối bình dị, giúp ta có thể nắm bắt được phần nào cốt lõi của triết học phương Tây mà không phải rơi vào cái mê cung ngôn ngữ của một số biên khảo sách triết học phương Tây với những ngôn từ đầy rối rắm, và hoàn toàn xa lạ với phương thức suy tư phương Đông.
Ngoài ra, có một số người trình độ hời hợt, khi giới thiệu triết học lại cố che giấu sự yếu kém của mình bằng những thuật ngữ triết học mà bản thân họ cũng không hiểu, khiến mọi người nhìn triết học cứ thấy rối tung cả lên, không sao lần ra đầu mối... (tr.17)
Cứ lấy đó mà xem, những nhà nghiên cứu triết học ở Nhật Bản vẫn cứ tự lừa mình, dối người thiệt đúng là quá khôi hài. Không hiểu thì không hiểu, nếu như ngay từ ban đầu cứ thành thực nhìn nhận điều này thì đâu có chuyện gì. Nhưng nói ra thì xấu hổ, bản thân tôi cũng phải mất 50 năm mới dám nói ra sự thật. (tr.31)
Câu chuyện “Hoàng đế cởi truồng” của Andersen đâu phải chỉ đúng với các học giả Nhật Bản, mà có lẽ cũng rất đúng với không ít các học giả ở xứ Á Đông. Dùng những thuật ngữ đao to búa lớn mà mình không hiểu để diễn đạt điều mình không hiểu, đó là căn bệnh trầm kha của cái học “đạo thính đồ thuyết”(5) nơi những người ham mê thuyết thoại. Chưa từng cầm kéo nhưng vẫn trịnh trọng dạy mọi người cách cắt may quần áo. Chưa biết sông, biển là gì nhưng vẫn hùng hồn hướng dẫn thiên hạ phương pháp ra khơi. Đó là cảnh tượng hiện đang diễn ra tràn lan trong cõi thế ở thời mạt pháp suy vi. Xét ở một góc độ nào đó, “phản triết học” cũng là liều thuốc góp phần chữa trị phần nào cho chứng bệnh nan y này.
“Phản triết học”, như một làn gió mát, giúp ta nếu có tìm đến với triết học thì cũng tìm đến với triết học bằng một tinh thần khác, nhìn triết học bằng một đôi mắt khác. Và nếu như không hiểu gì về môn triết học quá đỗi cao xa kia thì chúng ta cũng có thể thấy thoải mái mà mỉm cười, tự nhủ: “Không hiểu được triết học cũng chẳng có chi mô quan trọng, vì suy cho cùng nó cũng chỉ là phương thức suy tư riêng biệt của xứ sở châu Âu”. Là người phương Đông, chúng ta hãy để môn triết học cao xa đó cho người khác, đừng bận tâm chi tới triết thuyết này, chủ nghĩa nọ, mà cứ việc thong dong theo Tăng Điểm : “Mộ Xuân giả, xuân phục ký thành, quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi quy.” (Đến cuối mùa xuân, áo mùa xuân đã may xong, năm sáu người trạc độ hai mươi tuổi, sáu bảy đứa trẻ con: rủ nhau đi tắm sông Nghi, hóng gió nền Vũ Vu, rồi ca hát mà về. - Trần Trọng Kim dịch)!(6)
Huỳnh Ngọc Chiến
________________
Bài viết này ghi lại những cảm nhận của người viết khi đọc “Phản triết học nhập môn 反 哲 學 入 門 ” của Gen Kida. Nguyên tác tiếng Nhật, người viết đọc qua bản dịch tiếng Trung của dịch giả Lộ Tú Lệ 路 秀 麗, do Trung Tín xuất bản xã 中 信 出 版 社 xuất bản vào tháng 10-2011. Tất cả các câu trích dẫn trong bài viết này đều được trích từ bản tiếng Trung.
Tác giả Mộc Điền Nguyên 木田元, hay Gen Kida, (1928 - 2014) là một nhà nghiên cứu triết học nổi tiếng của Nhật Bản, chuyên về hiện tượng học. Ông tốt nghiệp khoa Triết học của Đại học Đông Bắc Nhật Bản, sau là giáo sư danh dự của Đại học Trung ương Nhật Bản. Ông được nhiều độc giả biết đến với những bản dịch dễ hiểu về các tác phẩm của các triết gia phương Tây hiện đại như Martin Heidegger, Edmund Husserl, Merleau - Ponty. Sau Thế chiến II, ông phải bươn chải kiếm sống bằng cách buôn bán ở chợ đen, điều đó cũng trở thành giai thoại. Các tác phẩm chính của ông bao gồm: Hiện tượng học, Lịch sử phản triết học, Tư tưởng của Heidegger, Tư tưởng của Merleau-Ponty, Nietzsche chơi dương cầm, Triết lý có ích gì trong cuộc sống hay không, v.v... Ông nghỉ hưu năm 1999 và trở thành giáo sư danh dự. Vào ngày 16 tháng 8 năm 2013, ông qua đời vì bệnh viêm phổi tại một bệnh viện ở thành phố Funabashi.
(2) Tác phẩm Sein und Zeit của Heidegger đã có bản dịch tiếng Việt là Hữu thể và Thời gian của dịch giả Trần Công Tiến, NXB. Quê Hương, Sài Gòn, 1973, đã tuyệt bản. Gần đây, tu viện Huệ Quang đã cho tái bản dưới dạng ấn ảnh. Tác phẩm Kritik der reinen Vernunft của Kant đã có bản dịch tiếng Việt là Phê phán Lý tính Thuần Túy của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn, NXB. Văn Học, 2014.
(3) Bạn đọc có thể tham khảo thêm trong tác phẩm Was ist das - die Philosophie? Bản dịch “Triết lý là gì? ” của cố học giả Phạm Công Thiện, NXB. An Tiêm, 1969, Sài Gòn, đặc biệt là các tr.35-39. Bản dịch này đã tuyệt bản, nhưng gần đây, tu viện Huệ Quang đã cho tái bản dưới dạng ấn ảnh.
(4) The “no-birth” (anutpdda) view of things, on the contrary, argues that nothing has ever been brought into existence through causal relations, but that things are what they are prior to the operation of the law of causation.(Suzuki, Studies in the Lankavatara Sutra, Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., New Delhi, 1998. 113)
(5) Chương Dương Hóa trong sách Luận ngữ có câu nói của Đức Khổng Tử: “Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã. 道 聽 而 途 說, 德 之 棄 也.” (Nghe được ngoài đường này rồi thuật lại trong ngõ khác, đó là cái đức bỏ đi vậy). “Đạo thính đồ thuyết” dùng chỉ những cái sở tri vá víu, học lỏm, nghe trộm, không có căn cơ. Câu này tôi có lần dùng trong Trúc Thanh tập, dù đã ghi chú cẩn thận, nhưng vẫn bị biên tập một cách khó hiểu thành “Đạo nghe rồi mà đem nói lại ngoài đường, đó là hủy mất đạo đức vậy.” (tr.133)! Các bậc chân sư cứ tùy duyên thuyết pháp thì xó chợ, đầu đường vẫn có thể trở thành nơi giảng đạo; trà đình, tửu quán vẫn có thể là thiền đường. Có gì là “hủy mất đạo đức”?
(6) Tác phẩm này có rất nhiều điều đồng cảm với những gì người viết đã có lần trình bày trong hai bài tiểu luận Chút tình Đông Á và Ngã ba ngôn ngữ. Xin xem:
https://giacngo.vn/phathoc/2010/12/24/5F7050/
http://tapchivanhoaphatgiao.com/tuy-but/nga-ba-ngon-ngu.html.