Dưới ngọn cờ Độc lập tự do

0:00 / 0:00
0:00
GNO - Lịch sử là cuộc vận động không ngừng nghỉ trên mọi phương diện. Phật giáo cũng không ngoại lệ.
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1316 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1316 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn

Vượt ngoài mọi buộc ràng của học thuyết hay đức tin, Phật giáo khi đến một quốc gia hay phương xứ nào đều có sự biến chuyển phù hợp, thích ứng và hòa nhập vào đời sống, xã hội của quốc gia, phương xứ ấy theo tinh thần “khế lý, khế cơ”.

Phật giáo Việt Nam, xét trên một bình diện nào đó, đã thể hiện một cách đặc sắc tinh thần “khế lý, khế cơ” vốn dĩ. Cuộc hội ngộ giữa tinh thần Phật giáo và nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc Việt Nam, vốn coi trọng sự uyển chuyển, khéo léo để tồn tại trước thử thách lịch sử đã nhanh chóng hòa quyện thành một. Lịch sử Phật giáo song hành cùng lịch sử dân tộc, tinh thần “hòa quang đồng trần”, “ở đời vui đạo” của Phật giáo Lý - Trần, cũng chính là sự phản ánh rõ nét tinh thần Việt Nam. Dân ta coi đạo Phật là “đạo của ông bà” có lẽ cũng từ nguyên do ấy.

Phục hưng dân tộc và Chấn hưng Phật giáo

Ngược dòng lịch sử, giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Phật giáo ở nước ta rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng, mất dần đi vị thế vốn từng có của mình ở những thời đại trước. Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền từng mô tả về thực trạng của thời kỳ này trong cuốn Phật giáo Việt Nam:

“Kịp đến khi nhà Nguyễn thống nhất sơn hà, Phật giáo bị biến thành một thứ lợi khí chánh trị trong tay nhà vua để củng cố ngôi báu vừa xây đắp, còn Tăng sĩ thì một phần như bị truất xuống hàng thủ tự các chùa sắc tứ hay hàng thầy cúng (…) Đến cuối thế kỷ XIX, với sự đô hộ của Pháp, tình thế lại càng lụn bại thêm. Trong gần tám chục năm trời, Phật giáo vừa bị Thiên Chúa giáo cạnh tranh ráo riết, vừa bị nhà cầm quyền nghiêm khắc hạn chế (…) Nản chí, các nhà tu hành chân chính tìm chốn ẩn tu, để mặc cho bọn ‘thầy đám’ múa gậy vườn hoang”.

Hay như trong Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam, Đại lão Hòa thượng Thích Trí Hải (1906-1979), một vị danh tăng có công đức lớn lao trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc đã nêu lên vắn tắt tình trạng của đạo Phật lúc bấy giờ:

“Trừ một số rất ít các vị cao tăng trí thức, còn phần đông tự mình không hiểu thấu nghĩa lý chân chính để tu hành tự lợi và giáo hóa cho người giác ngộ (…) Cứ xem ngay hình thức của Phật giáo hiện nay. Tuy mỗi làng có một ngôi chùa, có làng tới hai, ba, bốn, năm ngôi; trừ những nơi danh lam cổ tự ra, còn hầu hết đã biến tướng rất nhiều, không còn thuần túy là Phật giáo nữa. Từ nơi thờ phụng cho đến nghi thức lễ bái, không đâu giống đâu”.

Cùng với những biến chuyển của chính trị - xã hội ở trong nước và trên thế giới, sự thất bại của ý thức hệ Nho giáo khiến những trí thức yêu nước, ưu tư với thời cuộc quay sang tìm kiếm một giải pháp khác nhằm hiện thực hóa mong mỏi tháo bỏ xích xiềng nô lệ cho dân tộc. Trong giai đoạn này, khát vọng cải cách xã hội, “tỉnh quốc hồn” được những tiếng nói của những chí sĩ thức thời như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,… cất lên mạnh mẽ. Tại Hà Nội, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục với chủ trương “khai trí cho dân” do Lương Văn Can khởi xướng đã tạo nên một tiếng vang rất lớn, dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi.

Từ thực trạng xã hội đó, cùng với những luồng gió mới của phong trào Chấn hưng Phật giáo do Đại sư Thái Hư phát động ở Trung Hoa thổi tới, yêu cầu chấn hưng Phật giáo nước nhà cũng được nhen nhóm, trở thành đòi hỏi cấp thiết hơn bao giờ hết.

Chư Tăng và các vị cư sĩ với tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn đứng ra gây dựng phong trào Chấn hưng Phật giáo ở khắp 3 miền. Lần lượt, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học thành lập ở Sài Gòn năm 1931; Hội An Nam Phật học thành lập ở Huế năm 1932 và đến cuối năm 1934, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành lập tại Hà Nội. Những tờ báo Phật giáo nối nhau ra đời, kinh sách được in ấn bằng chữ Quốc ngữ, các trường Phật học theo nề nếp mới được khai mở,… Thời kỳ này, chính các vị trí thức tài danh cũng tích cực góp mặt vào phong trào như: Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Vĩnh…

Có thể nói, Chấn hưng Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX đã tạo nên một bước ngoặt vô cùng đặc biệt, đưa vào một sức sống, sinh khí mới, kéo đạo Phật ra khỏi tình trạng tụt hậu. Song song với đó, việc chấn hưng Phật giáo cũng giúp những Tăng sĩ với tư tưởng tiến bộ tiếp cận một cách gần hơn với cuộc sống. Cánh cổng chùa khép kín trong tĩnh lặng dần được mở ra với đời.

Đối diện thời thế, dường như, chính các nhà sư là người ý thức được rõ ràng rằng dòng sinh mệnh của Phật giáo nước nhà không thể tách rời khỏi vận mệnh của một dân tộc đang tha thiết kêu đòi độc lập, tự do. Ý thức ấy dần được cụ thể hóa bằng những hành động trong thực tế.

Rất nhiều trí thức tại Hà Nội đã lấy làm ngạc nhiên khi trông thấy sự xuất hiện của giới Tăng sĩ trong các buổi mít-tinh chính trị vào những năm 1925 và 1926, điều mà trước đó, họ gần như chưa bao giờ được chứng kiến.

Biển người từ mọi nơi kéo về Vườn hoa Ba Đình để chứng kiến thời khắc lịch sử khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Biển người từ mọi nơi kéo về Vườn hoa Ba Đình để chứng kiến thời khắc lịch sử khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Cuộc lễ Trung nguyên trong mùa thu lịch sử

Trên báo Tinh Tiến, số ra ngày thứ Bảy, 18-8-1945, Hội Phật giáo Việt Nam cho đăng chương trình Lễ Trung nguyên tại chùa Quán Sứ dự kiến sẽ diễn ra trong 3 ngày 13, 14 và 15 tháng Bảy năm Ất Dậu, nhằm vào các ngày 20, 21 và 22-8-1945. Cuộc lễ long trọng này được tổ chức theo nghi lễ truyền thống Phật giáo với trọng tâm là Đàn lễ Mông sơn phả độ cho chư anh linh chiến sĩ trận vong và các âm hồn. Cũng cần nói thêm, bắt nguồn từ chính sách “phá lúa trồng đay” do phát-xít Nhật gây nên, thời điểm đầu năm Ất Dậu này cũng là lúc xảy ra nạn đói khủng khiếp khiến gần 2 triệu người chết đói trên khắp miền Bắc.

Tuy nhiên, cuộc lễ này đã không diễn ra như kế hoạch dự kiến bởi vào Chủ nhật, ngày 19-8-1945, tổng khởi nghĩa bùng nổ trên cả nước. Từ sáng sớm ngày hôm ấy, thủ đô Hà Nội ngập trong khí thế cách mạng, cờ đỏ sao vàng tung bay khắp phố phường, “Các đoàn đại biểu đi diễu qua các phố mãi tới khi vừng ô đã tắt hẳn”. Trong dòng người cuồn cuộn ấy, người ta nhận ra nhiều Tăng Ni, Phật tử.

Mặt trận Việt Minh lần lượt chiếm lĩnh các công sở trong sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân. Chính quyền lâm thời được thành lập.

Rất nhanh sau đó, vào ngày 20-8-1945, tức 13-7-Ất Dậu, ngày mà theo dự kiến trước đó của Hội Phật giáo Việt Nam, cuộc lễ Trung nguyên long trọng sẽ được khai diễn tại chùa Quán Sứ, một Lời hiệu triệu của Hội Phật giáo Việt Nam gửi Tăng Ni, Phật tử cả nước đã được đăng tải trên báo Đông Phát:

“Ngày rằm tháng Bảy ta là ngày lễ quan hệ theo tục lệ nước nhà. Bản Hội yêu cầu tất cả các chùa và đạo hữu đến 5 giờ chiều hôm ấy đều cùng làm lễ, trước tỏ lòng hiếu nghĩa với tổ tiên, sau là cầu siêu cho những người bị tai nạn về chiến tranh, tật dịch và đói rét vừa qua.

Bản Hội lại yêu cầu trong ngày lễ đó toàn thể các đạo hữu nên cầu nguyện cho nền độc lập của nước nhà được bền vững và lâu dài…”.

Ngày 23-8-1945, chỉ 4 ngày sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, một đoàn đại biểu gồm hơn mười nhà sư do Tăng cang Thích Thanh Thao, tục danh Đỗ Văn Hỷ dẫn đầu đã vào Bắc Bộ phủ gặp mặt Chính phủ lâm thời của Việt Minh. Đại diện Chính phủ lâm thời là ông Võ Nguyên Giáp tiếp đón đoàn một cách trọng thị. Tại đây, đoàn đại biểu Phật giáo đã thể hiện sự ủng hộ nhiệt thành đối với Chính phủ của Việt Minh, trong lý tưởng giành lấy áo cơm, bình đẳng cho toàn thể nhân dân.

Chùa Quán Sứ, biểu tượng của phong trào Chấn hưng Phật giáo tại miền Bắc
Chùa Quán Sứ, biểu tượng của phong trào Chấn hưng Phật giáo tại miền Bắc

Màu áo nâu giữa mùa thu lịch sử

Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, chỉ vài ngày sau, 28-8-1945, tại trụ sở Hội Khai Trí Tiến Đức (số 79 phố Hàng Trống ngày nay), một cuộc họp được triệu tập với sự tham dự của chư Tăng đại diện cho các sơn môn lớn ở miền Bắc, thống nhất thành lập Hội Phật giáo Cứu quốc, suy cử Hòa thượng Thích Thanh Thao làm Chủ tịch.

Tiếp đó, Đoàn Tăng-già Cứu quốc phủ bộ Thủy Nguyên được thành lập vào ngày 30-8-1945 với trụ sở đặt tại chùa Phương Mỹ (Hải Phòng). Sự thành lập các Hội và Ủy ban Phật giáo Cứu quốc diễn ra đồng loạt sau đó tại khắp các khu vực trong cả nước như: Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị,… vào cuối năm 1945, khi người Pháp quay lại tái chiếm Việt Nam.

Hòa thượng Thích Thanh Thao, Chủ tịch Hội Phật giáo Cứu quốc Hà Nội
Hòa thượng Thích Thanh Thao, Chủ tịch Hội Phật giáo Cứu quốc Hà Nội

2 giờ chiều ngày 2-9-1945, hàng vạn người dân từ các nơi kéo về Vườn hoa Ba Đình, ngay trước Phủ Toàn quyền Đông Dương để nghe Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong đám đông chen kín những người Việt Nam đang hiện diện để chờ đợi giây phút mà biết bao người đã trông ngóng và hy sinh xương máu để có được sau gần một thế kỷ, người ta thấy có cả những nhà sư, những tín đồ Phật tử.

Trong hồi ký Những tháng năm không thể nào quên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kể lại khoảnh khắc về ngày lịch sử của dân tộc mà “mới hôm nao còn ở trong ước mơ”:

“… Cũng chưa bao giờ người nông dân ở những làng xóm nghèo quanh Hà Nội đi vào thành phố với một niềm tự hào như ngày hôm ấy.

Những cụ già vẻ mặt nghiêm trang. Những cô gái thủ đô hớn hở, áo màu rực rỡ.

Rộn ràng là các em thiếu nhi. Dù sự giàu nghèo của mỗi gia đình chưa đổi khác, nhưng từ ngày hôm nay, tất cả các em đều trở thành những người chủ nhỏ của đất nước độc lập. (...)

Những nhà sư, những ông cố đạo cũng rời nơi tu hành, xuống đường, xếp thành đội ngũ đến dự ngày hội lớn của dân tộc”.

Nền độc lập non trẻ vừa được thành hình, rồi đây, sẽ còn chịu nhiều thử thách, khi người Pháp vẫn còn nung nấu tham vọng đem ách thực dân quay lại. Có lẽ không ai trong số những người hiện diện tại Vườn hoa Ba Đình buổi chiều hôm ấy biết rằng phải đến tận 30 năm sau, đất nước Việt Nam mới hoàn toàn giành được độc lập, tự do.

Và có lẽ cũng không ai trong đám đông ấy biết trước rằng, cũng chính từ những cánh cổng chùa vừa mở tung trước đó chưa lâu, những nhà sư sẽ bước ra ngoài, hòa vào cuộc trường kỳ kháng chiến của cả dân tộc, sát cánh cùng cả nước đi qua những giai đoạn cam go, khốc liệt nhất, để rồi lưu danh mình trong sử sách với một việc làm trước sau hiếm có: cởi áo cà-sa khoác chiến bào.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Nuôi má

Nuôi má

GNO - Từ hồi nhận chuyện chăm má, chú Hai thấy lòng nặng như đeo đá. Là con trai một, hai cô em gái thì nhà nghèo, cơm ăn còn chưa đủ no. Chú biết má đã dành cả đời để lo cho chú với mấy đứa em, hình ảnh má tảo tần, một thân một mình nuôi con khôn lớn cứ hiện lên rõ mồn một trong đầu.
"Ánh sao độc lập" - Chương trình nghệ thuật đặc sắc kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9

"Ánh sao độc lập" - Chương trình nghệ thuật đặc sắc kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9

GNO - Nhân kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2-9, Ban Tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn TP.HCM phối hợp Sở Văn hóa - Thể thao và Đài Truyền hình TP.HCM sẽ thực hiện chương trình nghệ thuật đặc biệt “Ánh sao độc lập”.

Thông tin hàng ngày