GN - Liếc mắt thấy tôi đang đọc một cuốn sách Phật giáo, người hành khách cùng đi với tôi trên một chuyến tàu xuôi Nam, đến ngồi gần bên tôi làm quen.
- Ông đọc sách Phật?
- Vâng, tôi cũng chỉ mới tập làm quen nghiên cứu đạo Phật thôi.
- Thế ông có muốn nghe chuyện đời tôi không?
Thoạt nhiên nghe lời đề nghị khá đường đột, tôi hơi ngạc nhiên nhưng nghĩ rằng có người tâm sự để quên đường dài cũng hay nên ngồi gọn lại để nhường chỗ cho vị khách.
Nếu ông khách không tìm thấy Phật pháp ở gần cuối cuộc đời thì ông sẽ đau khổ biết chừng nào?
“Gia đình tôi và tôi vốn từ bé không theo đạo giáo nào. Từ tấm bé sức khỏe tôi không tốt, đau ốm hoài, người không lớn nổi. Mẹ tôi nghe lời mách bảo của những người hàng xóm, đem tôi bán cho một ông thầy pháp. Theo lời mẹ kể lại, ông thầy lấy cái áo mà tôi đang mặc rồi phùng mang trợn mắt phun rượu vào đó, đồng thời lấy một cây roi mây đánh tới tấp, miệng la hét những gì không rõ. Xong, trả áo và bảo: “Bây giờ thằng bé trên danh nghĩa là con tôi, không phải con bà nên không có ma quỷ nào dám quậy phá nữa".
... Tôi lớn lên bình thường, không phải nhờ ông thầy pháp, điều giản dị là ông đã chết mất đất từ lâu rồi.
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được bổ dụng làm việc tại Đà Lạt. Một ngày kia tôi bị một cơn sốt nặng. Bạn bè đưa tôi vào bệnh viện của thành phố.
Khi tôi tỉnh lại mở mắt ra, trước mắt là một bà soeur, không, phải nói là cô soeur vì còn rất trẻ và đẹp. Hiền dịu và tươi vui, cô nói “Hai ngày nay ông làm tôi sợ quá, không ăn không uống, mắt nhắm nghiền, miệng nói lảm nhảm”.
Nhờ sự chăm sóc y tế, tôi bình phục rất nhanh. Ngày ra viện soeur bùi ngùi cầm tay tôi dúi một vật gì đó và nói “Cầu Chúa ban cho ông nhiều sức khỏe”.
Tôi cũng lí nhí cảm ơn. Ra khỏi phòng tôi còn ngoái lại cố thu hình ảnh đẹp của người mà tôi mang ơn rồi mở bàn tay ra xem: một sợi dây chuyền bằng nhôm có mang một thánh giá.
Hồi còn nhỏ tôi là con ông thần ông thánh. Lớn lên tôi là con của Chúa. Nhưng chẳng ông nào níu kéo chân tôi được.
Tôi vẫn tự hào như thế khi sau khi 30-4-1975. Lúc khai lý lịch, đến mục tôn giáo tôi mạnh dạn ghi “KHÔNG” thật đậm, và cười thầm trong bụng khi thấy nhiều người ghi như thế mặc dù họ là tín đồ của tôn giáo này hay tôn giáo khác.
Dòng đời tiếp tục trôi. Cũng đến lúc tuổi về hưu. Con cái lớn đi làm ăn xa. Hai vợ chồng bàn với nhau lui về một thị trấn nhỏ vui thú điền viên.
Chẳng được mấy năm, bà nhà tôi lên cơn đau tim và mất đột ngột. Hoàn cảnh của tôi lúc ấy thật đáng thương. Tang gia bối rối mà không có một nguời thân thuộc nào bên cạnh. Lục trong trí nhớ tôi nhớ mình có người bạn trong thị trấn. Tìm trong sổ tay tôi thấy tên người bạn. Thật là may mắn, người bạn sau khi nhận điện thoại đến ngay.
Sau khi thăm hỏi sự tình, người bạn xách xe đi ngay và một lúc sau mang về mấy vật dụng cần thiết. Đầu tiên là nải chuối đặt trên bụng người chết, mấy cặp đèn cầy, mấy thẻ nhang… Khi đèn cầy được thắp sáng, mấy thẻ nhang được cắm trên bàn thờ, đồng thời bạn tôi mở chiếc cassette để nghe mấy bài kinh cầu siêu, tôi thấy căn nhà ấm cúng lạ thường. Tự nhiên tôi thấy rất rõ Đức Quán Thế Âm Bồ-tát xuất hiện, đặt tay lên trán nhà tôi và trên trán tôi, vỗ về an ủi. Kỳ diệu thay, tôi thấy mình đang ở trong thế giới yên bình và đầy tình thương yêu.
Tôi có thể nói ngay rằng không có bản nhạc nào có sức thuyết phục và làm lay động lòng người bằng những bài kinh bài kệ Phật giáo.
Sau khi nhà tôi mất, tôi giết thì giờ bằng cách đọc sách Phật. Khu vườn thâm nghiêm của Phật giáo đã cuốn hút tôi mạnh dạn bước vào. Và cũng nhờ đó tôi thấy tôi thanh thản.”
Xe lửa rúc mấy hồi còi báo hiệu tàu sắp vào ga. Tiễn ông khách xuống ga, tôi nhận thấy rằng, nếu ông khách không tìm thấy Phật pháp ở gần cuối cuộc đời thì ông sẽ đau khổ biết chừng nào?