Hà Nội nằm giữa đồng bằng sông Hồng. Giữa lòng Hà Nội là những núi, những sông: sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tích, sông Bùi, Kim Ngưu, Tô Lịch…; núi Ba Vì, núi Sóc, núi Nùng, núi Khán, núi Xưa cùng với các hồ nước xanh như mắt người con gái: hồ Tây, hồ Gươm, Trúc Bạch, Thuyền Quang, đầm Sét…
Năm 1010, Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời kinh đô từ Trường Yên (Ninh Bình) đến vùng đất mới dựng kinh đô nằm ven sông Hồng. Nhân việc đắp đê xây thành thấy có rồng vàng bay lên nên Lý Thái Tổ đặt tên là Thăng Long cho đến đời Trần. Triều Lê thay Trần mở rộng Thăng Long, đặt là Đông Đô, rồi Đông Kinh và Trung Đô. Đến đầu đời Nguyễn lại đổi là Thăng Long, rồi Hà Nội.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Quốc hội khóa VI, ngày 2-7-1976, quyết nghị: “Thủ đô nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là Hà Nội”.
Thăng Long rồi Đông Đô, Hà Nội luôn bận lòng vì giặc ngoại xâm, nhưng văn hóa Hà Nội vẫn sớm mở mang: năm 1040 xây chùa Một Cột, dựng Văn Miếu năm 1070, rồi mở trường Thái Học đầu tiên. Năm 1108 Hà Nội đắp đê quai vạc. Cũng từ đó người chơi hoa cũng đã sành. Có tới hai làng trồng hoa là Nghi Tàm và Võng Thị ngay bờ hồ Tây. Hội văn thơ Tao Đàn được lập từ thế kỷ XV.
Xa xưa, nghề thủ công đã phát triển rộng khắp kinh thành, có 36 phố phường, mỗi phố bán riêng một loại sản phẩm do một làng nghề sản xuất, tên sản phẩm thành tên phố, chỉ thêm chữ hàng như: phố Hàng Bồ, Hàng Nón, Hàng Thùng, Hàng Lọng, Hàng Đồng, Hàng Mắm, Hàng Đào…
Bình luận