Sắc lệnh cấm trừ đạo Phật
Theo lời kể của nhà sư Thích Tâm Hoan, pho tượng này là kết quả từ một cuộc pháp nạn của các tăng ni Phật giáo Việt
Hòa thượng Tông Diễn là thế hệ thứ hai của phái Tào Động tại Việt
Hòa thượng Tông Diễn đã dùng một "phương tiện" để có thể gặp được vua Hy Tông, ông nói dối rằng có một viên ngọc quý muốn dâng tặng. Tuy nhiên, vua Hy Tông kiêu ngạo chỉ cho người ra lấy ngọc. Hòa thượng Tông Diễn bèn cho một tấm biểu đã viết sẵn vào một chiếc hộp chuyển vào cho vua Hy Tông. Trong biểu chỉ có những điều đơn thuần dễ hiểu như: hãy nhìn vào đời Trần, đời Lý, các vua hết sức coi trọng đạo Phật và rồi quốc gia thịnh trị, đạo Phật khiến người ta biết ăn uống đúng mực, không sân si, không giết người cướp của, nó như một viên ngọc quý của quốc gia, vậy tại sao cho đến giờ đạo Phật lại bị cho rằng không mang lại lợi ích gì cho xã hội...
Vua Hy Tông mở chiếc hộp và đọc chiếu mới bừng tỉnh, cho vời hòa thượng Tông Diễn vào trò chuyện. Sau khi nghe hòa thượng thuyết pháp, bèn rút lại sắc lệnh đã ban. Vua Hy Tông từ đây hết sức sửa mình, tự nguyện đề nghị với hòa thượng Tông Diễn rằng nên làm một bức tượng mà trong đó, vua phủ phục dưới Phật, để thể hiện sự sám hối và sửa mình một cách cẩn trọng của ông. Đây là bức tượng độc đáo nhất của văn hóa Phật giáo Việt
Sự sửa mình trí tuệ
"Trong triết học nhà Phật, nghĩa gốc của chữ tu là sửa, con người hàng ngày thể nào rồi cũng đụng chạm đến đời sống của chúng sinh hoặc làm những điều bị ngăn cấm. Vua Lê Hy Tông đã vi phạm một điều rất lớn là phá đạo, trong khi đạo Phật luôn chủ trương đường lối không dùng sự thủ tiêu và tàn nhẫn, đó là một cách "cai trị" mà không cần vũ trang, đó là Phật trị", TS Hán học Cung Khắc Lược nhận xét, "dáng nằm như gãy đó thể hiện một sự quy phục tuyệt đối, dáng mẫu mực của sự thuần phục, ra sức, nó hơn hẳn sự thành khẩn của mọi nền phê bình. Đó là sự chân thành, một sự thay đổi xuất phát từ sâu sắc trong tim chứ không gượng ép và do đó, đây không phải là một sự trừng phạt".
Thoạt nhìn bức tượng thấy một người ngồi trên lưng một người, có vẻ như dữ tợn, như thể đây là một sự trừng phạt đáng thương xót. Tuy nhiên, pho tượng này nằm ở một tầng cao về trí tuệ, một sự sửa mình để sống tốt hơn, một người ở cấp độ cầm quyền cao nhất cũng phải xem lại chính mình. Sự ngự trị trong cõi này còn có một cõi ngự trị siêu hùng ưu việt hơn, đó là lực lượng của trí tuệ, một sự tự thân, của bản thể duy nhất.
"Pho tượng này là để muôn đời chứ không phải là để hoài cổ, như một di tích. Vị vua này đã nghĩ đến một mai hậu của tấm lòng con người, rằng muốn phát triển và thúc đẩy thì phải thay đổi, phải nhận ra mình và cung kính sửa bỏ, thành thực và có một thái độ, nghị lực lớn thì mới đạt được trí tuệ để thay đổi nhân quần xã hội", TS. Cung Khắc Lược nói.
Đây cũng là một pho tượng cho thấy mối liên hệ rất thú vị giữa tôn giáo và chính trị Việt
"Sống trên đời ai cũng có lỗi lầm nhưng ít người chịu nhận, có nhận thì họ cũng chỉ tự nhận với mình hoặc nhận với nhau, những người sẽ không đánh giá và quy tội họ, hoặc có người nhận thì chỉ là nhận suông thôi, không chịu sửa. Vị vua này, người mang quyền lực tối cao trong một nhà nước đã biết nhận lỗi, sửa lỗi. Sự sám hối này không chỉ cho mình ông, mà còn để răn dạy bao thế hệ về sau nữa", nhà sư Thích Tâm Hoan chỉ dạy.
Lai lịch của phái Tào Động Tào Động tông là một tông phái Thiền quan trọng tại Trung Quốc được hai vị Thiền sư sáng lập, là và đệ tử là . Người ta ghép hai chữ đầu của tên hai vị này và gọi là Tào Động. Mặc dù mục đích tu tập trong hai trường phái và Tào Động như nhau nhưng phương pháp tu tập cụ thể thì có khác biệt. Tào Động tông chú trọng đến phương pháp tức là , "chỉ an nhiên là đủ", Lâm Tế tông chủ trương phương pháp , là quán . Trong thế kỉ 13, Thiền sư Nhật là đưa tông này qua Nhật và Tào Động trở thành môn phái Thiền quan trọng, ngày nay vẫn còn. Trong tông Tào Động tại Nhật, phương pháp - một trong những thành phần tu học quan trọng của - đã thất truyền từ thời Minh Trị. Thiền Tào Động được Thiền sư (1636-1704) truyền sang Việt Nam giữa thế kỉ thứ 17. Sư rời Đại Việt năm 1664, cùng với hai đệ tử sang Trung Quốc, đến Hồ Châu học đạo với Thiền sư và ở đó ba năm sau mới về. Thông Giác truyền giáo cho và phái này hoạt động ở Đàng ngoài (miền Bắc), rất thịnh hành cuối thế kỉ 17 và đầu 18. Đàng trong (miền Trung), thiền Tào Động do một Thiền sư Trung Quốc là (1633-1704), hiệu Đại Sán Hán Ông truyền dạy. Năm 1695, theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu, Sư đến Thuận Hoá. Sư là người tổ chức giới đàn Thiền Lâm với hàng ngàn người tham dự. |
Nhất Cửu Tư Nam