NSGN - Trong đời…có những đoạn nhân duyên khó quên, dù theo thời gian chỉ còn lờ mờ trong tâm trí. Tôi gặp Sư Hưng trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Sư tìm đến tôi khi tôi vừa sinh con gái đầu lòng, chồng thì đang giai đoạn cải tạo. Có cuộc gặp mặt này là bắt nguồn từ lá thư tôi viết cho chồng.
Đạo là phương tiện giúp người thoát khổ - Ảnh: Huyền Không Sơn Thượng
Bốn chục năm trước…
Sư từ trên núi xuống, vào trại cải tạo vì lý do khá đơn giản. Phát biểu linh tinh. Người ta đang ca tụng vị anh hùng dân tộc đầu tiên lên mặt trăng thì Sư tuyên bố “Có gì đâu mà ca tụng, giống như con chó được cho vào rọ rồi đưa lên”. Thế là Sư được mời vào trại cải tạo, cùng phòng với chồng tôi, một người vừa bị bắt do vượt biên cách đó mấy tháng. Chiếc áo vàng với vô số lớp vá quanh thân là thứ gì đó khá ngộ nghĩnh với con mắt thiên hạ - họ vô trại vì nhiều lý do, trộm cắp, giết người, uýnh nhau… - khiến Sư không được yên thân. Thời mới giải phóng, ở một xã nhỏ cách xa thành phố thì điều kiện trại giam chỉ có thế.
Chồng tôi là người duy nhất bảo vệ Sư trong căn phòng ấy. Ngoài những giờ ngồi thiền, còn lại Sư rất thân thiết với anh. Thứ gì anh cũng chia sẻ với Sư. Thư cũng cho Sư đọc. Sư rất hồ hởi đọc nó. Tỏ ý muốn đọc trước khi được mời. Thế là chồng tôi đưa.
Hai ngày sau Sư nói với chồng tôi “Mai Sư ra trại. Vì đêm qua Sư thấy có người tới cõng Sư qua núi”. Sư ra trại thật. Có người đến bảo lãnh cho Sư ra. Sư ra rồi, phi thẳng lên nhà tôi, gọi cửa, bắt tôi trả hết hai mươi đồng tiền xe, giảng cho tôi cả tiếng về chữ ái, cuối cùng bắt tôi quỳ xuống lạy Sư làm thầy. Pháp danh có rồi nên không đặt, không thì cũng có pháp danh Sư đặt cho.
Sư là vị Đạo sư đầu đời của tôi, dù mọi thứ không phải tự nguyện. Không như đến với Hòa thượng Trúc Lâm. Chỉ mới đọc sách của Hòa thượng, là đã tự nguyện tu hành, tự nguyện phát Bồ-đề tâm, tự nguyện chay trường, tự nguyện dứt bỏ dâm ái. Tự nguyện mà làm được. Còn với Sư, chẳng làm được thứ gì. “Phải chay trường, không được sinh thêm con, chồng ra tù thì cả hai về tu với Sư”. Sư dặn thế đó, nhưng không làm được thứ gì. Vẫn ăn mặn, sinh con, không phải một mà đến hai đứa, cho đến khi đọc được sách của Hòa thượng. Không làm được nên rất sợ mỗi khi thấy Sư xuất hiện.
Dù vậy lại thương Sư hết mực. Bởi mỗi khi gia đình có việc, Sư xuất hiện rất đúng lúc, mọi muộn phiền được giải tỏa. Nhưng với tôi, Sư vẫn là mẫu người quái dị, chẳng có hơi hướm gì của một bậc thánh. Đầu trần, chân đất, lang thang từ chỗ này đến chỗ kia, không bao giờ có tiền trong túi, cần dùng tiền thì bảo người khác trả mà không cần biết người ta có tiền hay không. Lại còn nói về vị này, chê bai vị kia. Đủ thứ chuyện trên đời. Ngày tôi phát tâm cúng dường Sư hai cây vàng mua đất, Sư lại đòi tới bốn cây. Tôi không đưa. Sư nài thêm ông bạn một chỉ, mới chịu đi. Trước khi đi còn xưng mình là Phật, khó gặp lại lần nữa. Mà không gặp lại thật. Đó là lần cuối tôi gặp Sư.
Dù quái dị nhưng Sư là người dễ gần. Tôi có thể phát biểu mọi thứ mà không sợ Sư phản ứng. Khi nào Sư cũng vậy. Không nhăn nhó, khó chịu, dù tôi phản ứng mãnh liệt thế nào. Với Sư, tôi không có tâm phải thận trọng hay kiệm lời như khi sống với kẻ khác. Vì thế song song với việc bực bội, coi thường, vẫn có tình thương mến thương rất nhiều.
Sau này, có chút tri thức rồi mới thấy cái nhìn của mình cạn cợt. Cứ đem tư tưởng phàm tình đánh giá thánh nhân, hỏi sao chẳng thấy Sư phàm tục. Chỉ cần phản quan tự kỷ, sẽ thấy mọi thứ Sư làm chỉ là tấm gương phản ánh tư tưởng và hành vi của chính mình. Rất chính xác. Hình ảnh của Sư chẳng qua chỉ là hệ quả của một mớ sở tri mình đã huân tập từ quá khứ. Còn con người thật của Sư, tư tưởng đời thường chẳng thể thấu. Chính vì thế, trong những cái mình cho là quái dị vẫn hiện ra những cái rất siêu dị. Những gì Sư nói với tôi về công phu, về những cảnh giới sẽ trải qua trong việc tu hành đều ứng nghiệm, dù ngày đó chúng được ghi nhận trong sự hờ hững.
Thật ra thì, chẳng có con người thật nào ở thế giới này khi nó được đúc kết bằng những mạch nối nhân duyên.Nếu nhân duyên giữa tôi và Sư thuận, tức tôi và Sư đã có những mối liên hệ khá tốt từ những đời quá khứ thì Sư trở thành con người tuyệt vời với tôi. Nếu nhân duyên giữa tôi và Sư không thuận, tức quan hệ giữa tôi và Sư đời quá khứ không tốt thì Sư trở thành đáng ghét với tôi.
Con người Sư thế nào là tùy duyên, duyên này có phần của người đối diện trong đó. Tùy nhân duyên của từng người mà hình tượng của Sư theo đó biến tướng. Nhưng đa phần lại lấy tướng tùy duyên ấy cho là tính cách của Sư và xem tính cách ấy là con người thật của Sư. Mọi thứ thành sai lầm. Đa phần người đời đều sai lầm như thế. Tướng, không phải là tánh dù nó không lìa tánh. Hiện tướng ở một người chưa hẳn đã là bản chất của người đó. Chỉ là theo duyên mà hiện khởi. Không có tôi hay tất cả những ai có nhân duyên với Sư, Sư không xuất hiện và tồn tại. Tất cả pháp ở thế gian đều như thế. Hiện tướng nhờ những tương quan, gọi là duyên khởi, nên tướng ấy không có chất thật. Duyên khởi thì cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không, thực chất là không, vô sở hữu. Con người thật của Sư cũng vậy, là không, vô sở hữu, chỉ tùy duyên mà hiện tướng.
Thời còn trứng nước
“Sư là người tu Tiểu thừa”, Sư tự nói với tôi như thế. Tiểu thừa là tên khác của Thanh văn thừa, Trung thừa là tên khác của Duyên giác thừa và Đại thừa là tên khác của Bồ-tát thừa. Hiện nay, Tiểu và Trung thừa được gọi chung là Phật giáo Nguyên thủy. Đại thừa được gọi là Phật giáo Phát triển. Có những thay đổi như thế là tùy tâm chúng sinh ứng cơ mà thành. Hành vi của Sư đúng là nhuốm màu sắc Tăng nhân thời Đức Phật. Đầu trần, chân đất, ba y, một bình bát, ăn một bữa, không giữ tiền, cũng chẳng có nơi chốn nhất định. Song một người còn chất đầy khổ não như tôi thì Tiểu hay Đại không có gì liên can. Thứ tôi quan tâm là Sư có khiến tôi hết khổ không mới là quan trọng. Dù tà ma ngoại đạo mà Sư mang đến hạnh phúc cho tôi thì tôi vẫn theo Sư. Còn Đại cỡ nào, mà gần Sư chỉ có khổ, hiện tại khổ, tương lai khổ… thì tôi xin vái. Vì thế Tiểu hay Đại, nghe tai này cho liền qua tai kia.
Chỉ khi bước chân vào đạo rồi, đụng phải những người giả danh “Nguyên thủy”, nói giả danh vì pháp tu và lý thuyết họ nói chẳng thấy nằm đâu trong các bài kinh thuộc hệ A-hàm, chỉ được cái tưởng quá khích trong việc bài báng Đại thừa, tôi mới nhận ra giá trị của những gì Sư nói. Sư là người củng cố niềm tin cho tôi rất lớn trong giai đoạn trứng nước này.
Tu được với Hòa thượng Trúc Lâm một năm, thiên hạ nói mày tu nhầm tà ma ngoại đạo. Không phải một người mà khá nhiều người. Họ nói tu cái đó điên. Tôi không muốn đánh mất chút an vui vừa kiếm được khi theo Hòa thượng, nên mang việc đó ra hỏi Sư. Tôi muốn biết về Tổ sư thiền. Sư không nói Tổ sư thiền là chánh hay tà, chỉ kể tôi nghe câu chuyện Đức Phật chia nửa tòa ngồi cho ngài Ca-diếp. Và kết luận Ca-diếp là ông Tổ của Tổ sư thiền.
Sư nói thêm về công đức của mười bốn loại bố thí, tăng dần theo giới hạnh. Bố thí cho loài bàng sinh được trăm phần công đức. Bố thí cho phàm phu theo ác giới được ngàn phần công đức. Bố thí cho phàm phu giữ giới được trăm ngàn phần công đức… Cứ thế mà tăng dần cho đến quả A-la-hán, Độc Giác Phật, và cuối cùng là Phật, A-la-hán Chánh đẳng giác. Sư nói các đại đệ tử của Phật chỉ có danh xưng A-la-hán, còn Phật có thêm chữ Chánh đẳng giác. Đó là chỗ khác nhau giữa hai danh xưng có cùng danh hiệu A-la-hán. Hiểu vậy để thấy sự khác nhau giữa Phật và A-la-hán.
Còn một việc giúp nhận ra sự khác biệt nữa, là công đức nhận được khi cúng dường A-la-hán ít hơn Độc Giác Phật, cúng dường Độc Giác Phật ít hơn cúng dường Phật. Công đức nhận được khác nhau chứng tỏ quả vị tu chứng của chư vị phải khác nhau. Giáo pháp giúp thành tựu quả A-la-hán đặt nền tảng trên Tứ đế, thành tựu quả Độc Giác Phật (Bích Chi Phật) đặt nền tảng trên Thập nhị duyên sinh. Vậy phần giáo pháp giúp thành tựu quả vị Phật nằm ở đâu nếu phản bác kinh luận Đại thừa, cho là tà ma ngoại đạo? Câu hỏi đặt ra của Sư khá lý thú. Phần giáo pháp dạy cho giai đoạn này nằm trong các bộ kinh Đại thừa mà Tổ sư thiền là một phần trong đó. Nếu không có phần giáo thuyết đó, Phật giáo trở nên thiếu khuyết. Cũng như không có phần giáo thuyết Nguyên thủy thì giáo pháp của Phật coi như hụt chân, không có nền tảng để hình thành nên giáo Đại thừa.
Sư đã củng cố niềm tin cho tôi theo kiểu như thế. Đơn giản và dễ hiểu. Quan trọng là phù hợp với căn cơ của tôi lúc ấy. Còn lý giải siêu hơn mà tôi không hiểu thì cũng chịu, chẳng tiếp thu được. Niềm tin càng được củng cố khi Sư là người tu Tiểu thừa, sống đời sống Tăng nhân thời Đức Phật mà nói về Đại thừa. Một Sư Đại thừa khen Đại thừa, không đáng tin cậy bằng một Sư Tiểu thừa tán thán Đại thừa. Chứng cứ lại được lấy ra từ các kinh thuộc hệ A-hàm. Nhờ đó, niềm tin của tôi được củng cố, giúp tôi vững tiến trên con đường mình đã chọn, con đường mang đến an vui cho bản thân và gia đình. Cho đến khi tôi có được niềm tin bất thối nhờ những trải nghiệm của chính mình.
Mọc lông mọc cánh
Là thời tôi trưởng thành hơn trong giáo pháp của Phật. Chưa thể hiểu hết những gì kinh luận nói, nhưng đã có thể thấy được mặt không khác của toàn bộ kinh luận, cũng như cái gọi là Tiểu, Trung, Đại mà các bậc cổ đức đã phân, điển hình là chư Tổ tông Hoa Nghiêm. Phân để rõ được giáo pháp qua từng thời kỳ, để biết tinh thần mà phần giáo đó hướng đến, không phải vì bản chất pháp đó lớn hay nhỏ, cao hay thấp. Nhỏ hay lớn, cao hay thấp là tướng tùy duyên, nên chúng chỉ có giá trị theo duyên, không có giá trị phổ quát, để nương đó mà phân Tiểu - Đại. Bạn tu Đại thừa mà sức định bạn không có thì không thể bì với những vị đã chứng quả Tư-đà-hoàn, huống là A-na-hàm, A-la-hán. Chư vị kiến tánh trong Thiền tông, cũng phải đến vị Bát địa, sức định mới bằng A-la-hán. Việc đó cho thấy phân Tiểu - Đại không do phần giáo pháp cao hay thấp mà ở đích đến. Thay vì chứng quả La-hán trong tương lai, giờ phát tâm thành tựu quả vị Phật. Dài hơn, lâu xa hơn, khổ nhọc hơn, phần giáo hóa nhân sinh rộng lớn hơn, cái lạc nhận được cũng rốt ráo hơn. Đại là chỗ đó. Không phải vì pháp tu cao hay thấp mà phân Tiểu - Đại.
Tôi thấy pháp tu Đại thừa chẳng ra ngoài những gì kinh luận Tiểu thừa đã dạy, chỉ là biến thể chút cho phù hợp với căn cơ chúng sinh thời sau. Quán vô thường hay từ bi, dù tu theo Tiểu hay Đại đều phải quán để mà bình thản và buông bỏ, đều phải nương vào đó để tịnh hóa thân tâm. Pháp “Chánh niệm trong công việc và hành động” được dạy trong các luận Đại thừa chẳng khác pháp Quán thân trong Tứ niệm xứ. Biết vọng không theo mà tôi đang ứng dụng đây, thấy cũng không ra ngoài pháp Quán tâm, Quán thọ. Chỉ là mở rộng hay thu hẹp sao cho phù hợp với căn cơ chúng sinh từng thời. Trong kinh Thập thiện, vẫn nói đến Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Tứ vô lượng tâm v.v… Điều đó cho thấy không thể chỉ nhận danh xưng Đại thừa mà không choàng lên người lớp áo Tiểu thừa. Bác Tiểu không nhìn tới là cái lầm của kẻ thiếu trí.
Nếu hiểu được tinh thần chính của việc tu hành là giúp hành giả đưa dần tâm về chỗ thanh tịnh, sẽ thấy vì sao có Tứ niệm xứ, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Tham thoại đầu, Tham công án, Biết vọng không theo, Niệm Phật, Trì chú... Tất cả đều phục vụ cho mục đích đưa tâm từ cái nhiều về cái một, từ cái một về cái không, để thể nhập thể tánh vô trụ. Cũng sẽ hiểu vì sao phải giữ giới dù là người tại gia. Bởi tất cả đều giúp tâm chúng sinh tương ưng dần với sự thanh tịnh của chân tâm. Chân tâm là cái tâm mà tất cả chúng sinh đều sẵn đủ, chỉ do si mê, tham chấp, sân hận mà thành náo loạn, rồi nhận cái náo loạn ấy là mình. Nhân đó mà nhận vô vàn khổ nạn và bi thương.
Trung đạo, tinh thần xuyên suốt từ Tiểu đến Đại
Trung đạo, là không vướng vào nhị biên phân biệt, không rơi vào cực này hoặc cực kia. Đây là tinh thần chủ đạo xuyên suốt trong toàn bộ giáo lý Phật-đà, chỉ là cạn hay sâu.
Tôi nhìn thấy tinh thần này biểu hiện rất rõ qua các kinh điển Tiểu thừa cũng như Đại thừa.
Trung luận, mở đầu bằng bài kệ “Không sinh cũng không diệt/ Không thường cũng không đoạn/ Không một cũng không khác/ Không đến cũng không đi”. Sau đó, toàn bộ Trung luận đều dùng không phá có, hiển cái gọi là “không có cũng không không”, mà Bát-nhã tâm kinh gọi là “Tướng không của các pháp”. Trong Lăng-già tâm ấn v.v… cũng dùng bốn từ vô, bất, phi, ly để hiển tướng không này. Bồ-tát Đại Huệ tán thán Phật “Trí chẳng thấy có không/ Mà khởi tâm đại bi…” v.v… Trong kinh điển Tiểu thừa thì có các kinh, điển hình như kinh Vô tránh phân biệt: “Chớ có hành trì dục lạc, hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc thánh, không liên hệ mục đích. Cũng không nên hành trì tự kỷ, khổ hạnh, đau khổ… Từ bỏ hai cực đoan ấy, có con đường Trung đạo đã được Như Lai giác ngộ…”1.
Vì sao nói đến Trung đạo và Trung đạo trở thành tinh thần chủ chốt của toàn bộ Phật giáo?
Vì tâm chân thật sẵn đủ trong mỗi người, kinh luận gọi là Phật tánh, chân như, cội nguồn thanh tịnh v.v... thể của nó “Chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng chẳng có, chẳng phải tướng chẳng không, chẳng phải tướng vừa có vừa không, chẳng phải tướng một, chẳng phải tướng khác, chẳng phải tướng vừa một vừa khác…”. Tâm chân thật không thuộc nhị biên phân biệt. Thực hiện Trung đạo là để tương ưng và thể nhập tâm ấy. Phải tương ưng thì mới nhận được Niết-bàn hữu dư y. Phải thể nhập thì cái lạc nhận được mới rốt ráo, mới qua được hai loại sinh tử là Phần đoạn tử và Biến dịch tử.
Bát Thánh đế
Đây là từ được dùng trong kinh Thắng Man phu nhân hội.
Chính là nói về Tứ Thánh đế. Vì Tập có cạn có sâu, Khổ có thô có tế… nên không nói Tứ Thánh đế mà nói Bát Thánh đế. Tuy là Bát Thánh đế mà thật chỉ là Tứ Thánh đế.
Kinh phân Tứ Thánh đế thành hai loại. Hữu tác Thánh đế và Vô tác Thánh đế.
Tứ Thánh đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Với Tiểu thừa,
Khổ là bát khổ: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, cầu bất như ý khổ, thương mà phải xa lìa khổ, ghét mà phải chung chạ khổ, năm ấm không điều hòa khổ. Mọi cái khổ ở đời được Phật gói gọn trong tám thứ đó. Nói chi tiết thì đói khổ, no khổ, thiếu mặc khổ, so sánh khổ, phân biệt khổ, tranh cãi khổ v.v… Đủ thứ trên đời để khổ. Có sinh là có khổ. Từ sinh đến tử có khá nhiều thứ khổ nếu bản thân không biết đạo. Loại sinh tử mà phàm phu phải chịu trong giai đoạn này, gọi là Phần đoạn tử.
Tất cả khổ đó, nhân của nó là Tập. Tập là sự tích tụ. Tích tụ một nhân duyên, bám chấp vào đó, nên sinh quả khổ. Song giáo lý Tiểu thừa chỉ nói nhân như thế, duyên như thế, sinh ra quả như thế. Chẳng nói nhân duyên ấy tích tụ ở đâu mà qua nhiều đời vẫn có thể sinh quả. Cũng không giải thích vì sao không có chỗ nơi mà nhân duyên không mất đi, vẫn sinh quả báo đời sau.
Tập được nói đến trong phần giáo Tiểu thừa là sự hiện hành của các chủng tử, không phải là chính các chủng tử. Đó là những sinh khởi đang hiện hành trong tâm chúng sinh hiện nay. Tham, sân, si, vui, buồn, suy nghĩ, hy vọng, phân biệt v.v… Phật Tổ gọi chung là vọng tưởng. Hàng phục được dòng hiện hành này, là chứng được Niết-bàn hữu dư ý, gọi là Diệt. Là diệt được phần phiền não chướng, thoát được Phần đoạn tử, và gọi đó là Niết-bàn. Phần hàng phục này không giống như người tu Tứ thiền Bát định hay trời Vô tưởng định, vì có phần quán khổ, không, vô thường, vô ngã.
Vì chỉ mới đề cập đến phần hiện hành, chưa nói đến chủng tử, nên thức trong phần giáo thuyết này chủ yếu nhấn mạnh đến sáu thức thuộc sáu căn, chẳng nói cội gốc của sáu thức.
Đạo là phương tiện giúp người thoát khổ như Tứ niệm xứ, Thập nhị duyên sinh, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v...
Với Đại thừa,
Khổ không chỉ dừng ở Phần đoạn tử mà còn có Biến dịch tử. Biến dịch tử, là những dao động vi tế trong tâm sau khi đã dọn được phần hiện hành. Phần hiện hành chưa được hàng phục thì không thể nhận ra được phần dao động vi tế này. Đó là cái khổ mà hàng Bồ-tát tu Đại thừa phải chịu, dù đã qua được Phần đoạn tử. Khổ chư vị nhận được không còn nằm ở mặt cơm, áo, gạo, tiền, bệnh khổ ở thế gian mà chính là những dao động vi tế trong tâm. Song người tu Đại thừa hiện nay có khi vẫn chưa thoát được những cái khổ lặt vặt ở thế gian, vọng tưởng hiện hành chưa thể hàng phục, vì thế không thể không dùng pháp Tiểu thừa để ổn định thân tâm. Đại chẳng thể tách lìa Tiểu là vậy.
Theo luận Đại thừa khởi tín, chỉ có A-la-hán, Bích Chi Phật và hàng Bồ-tát từ Tín tương ưng địa trở lên (là những vị đối với nhân không đã được tự tại, đã lìa các khổ thô) mới trực tiếp chịu sự chi phối của Biến dịch tử.
Tập được nói đến trong giáo lý Đại thừa không chỉ là phần hiện hành của các chủng tử (nghiệp tập) mà còn là sự tích tụ của các chủng tử, gọi là tập khí. Sự tích tụ các chủng tử này tạo ra thức thứ tám. Có các chủng tử mới có thức thứ tám. Không có chủng tử thì không có thức thứ tám. Ngược lại, nói đến thức thứ tám là nói đến các chủng tử. Không có thức thứ tám thì các chủng tử cũng không. Hòa thượng Thiện Siêu dùng một ví dụ khá hay cho sự tương quan giữa chủng tử và thức thứ tám như sau: Đống đồ chơi hình thành từ các đồ chơi. Không có đồ chơi thì không có đống đồ chơi. Không có đống đồ chơi thì không có đồ chơi2. Chủng tử ví như món đồ chơi. Thức thứ tám chính là đống đồ chơi. Nhìn hình tượng ấy để tạm hiểu về thức thứ tám.
Thức thứ tám chính là chỗ “nhiếp trì cả nhân quả làm tự tướng của nó… Lìa thức thứ tám này thì không thể riêng có quả Dị thục thù thắng về mạng căn, chủng đồng phận cùng sinh tử uẩn, hằng thời tương tục”3. Thức thứ tám này “có khả năng chấp thọ duy trì chủng tử các pháp không để mất, nên còn gọi là thức Nhất thiết chủng”4. Khi còn nhiễm ô thì thức này có tên là thức A-lại-da. Thức này, luận Thành duy thức nói chúng sinh không thể biết chấp thọ, xứ và liễu của nó. Chấp thọ, chỉ cho chủng tử hữu lậu và sắc thân có các căn. Chủng tử hữu lậu, là tập khí của sự phân biệt về tướng và danh. Xứ, chỉ cho xứ sở, là khí thế gian, nơi nương tựa của loài hữu tình. Liễu, chỉ cho hành tướng của thức. Thức lấy sự liễu biệt làm hành tướng. Do sức nhân duyên mà khi tự thể thức A-lại-da sinh khởi, trong biến thành chủng tử và căn thân, ngoài biến thành khí thế gian. Rồi lấy chỗ biến ra đó làm cảnh sở duyên của mình. Hành tướng liễu biệt y đó mới khởi được. Vì thế thức trong giáo Đại thừa không chỉ có sáu mà đến tám, thêm thức thứ bảy và thứ tám5.
Đạo vẫn là Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Tứ vô lượng tâm, Chỉ quán, Tham công án, Niệm Phật v.v…
Diệt chính là thể nhập chân thể thanh tịnh với đầy đủ diệu dụng nhiệm mầu mà Phật cùng chúng sinh đồng có. Kinh Đại bát Niết-bàn gọi đó là Phật tánh. Kinh Pháp hoa gọi đó là Tri kiến Phật.
Chỗ đồng và khác giữa hai loại Thánh đế là như vậy.
Gọi Hữu tác vì “nghĩa của Tứ Thánh đế chưa viên mãn. Vì tha hộ trì nên không thể biết được tất cả Khổ, đoạn tất cả Tập, chứng tất cả Diệt, tu tất cả Đạo”6. Nói tha hộ trì vì còn thấy ngoài tâm có pháp, chưa nhận ra được Tam bảo của tự thân. Do phần chưa thấu đó mà nói chưa thể biết được tất cả khổ v.v…
Gọi là Vô tác vì “nói về nghĩa Thánh đế viên mãn. Vì có thể tự hộ trì nên biết tất cả Khổ, đoạn tất cả Tập, chứng tất cả Diệt, tu tất cả Đạo”7. Do đã nhận ra Tam bảo của tự thân, thấy được cội nguồn của tất cả pháp, nên nói Thánh đế viên mãn, biết tất cả khổ…
Pháp của Tiểu thừa đa phần là pháp đối trị. Nhờ sự đối trị này mà tâm trở nên thanh tịnh, tương ưng dần với tâm thể vốn sẵn của mình. Như người bệnh, cần phải có quá trình uống thuốc. Hết bệnh rồi mới có thể trở thành người bình thường. Trở thành người bình thường rồi thì không cần đến thuốc đối trị nữa. Quá trình dùng thuốc đối trị này cũng là một phần khiến Tứ Thánh đế này được gọi là Tác Thánh đế.
Hết bệnh rồi, thuốc đối trị cũng bỏ, không chấp thủ thuốc uống nữa, mới thể nhập được chân tánh nhiệm mầu, nên nói Vô tác Thánh đế. Tuy vậy, trong Đại thừa không phải không có pháp đối trị. Nói Vô tác là nói phần mà người tu Đại thừa phải đạt đến, không phải trong Đại thừa không dùng pháp đối trị. Ngoài những pháp mà người tu Đại thừa ứng dụng từ giáo Tiểu thừa, vẫn còn các pháp mang tính đối trị khác mà thời Đức Phật chưa có, như pháp Trì danh hiệu Phật. Có người trì danh để vãng sinh Cực lạc. Có người trì danh để thấy được tự tánh Di Đà của mình. Tự tánh Di Đà, tự tánh Thích Ca, tự tánh của chúng sinh đều không ngoài “Tướng không” nói trong Bát-nhã tâm kinh, Phật tánh trong Đại bát Niết-bàn, thể không chân như trong luận Đại thừa khởi tín v.v… Đối trị ở đây là dùng một niệm A Di Đà trừ muôn niệm chúng sinh đang hiện khởi trong tâm, cho đến khi tâm được chuyên nhất gọi là nhất tâm bất loạn. Nhất niệm đó bùng vỡ mới thể nhập tự tánh Di Đà.
Như pháp “Biết vọng không theo” tôi đang ứng dụng đây. Khi lực vọng động của tâm thức còn quá mạnh thì pháp ấy trở thành pháp đối trị. Dùng cái biết để đối trị lực của vọng niệm. Khi lực vọng động yếu thì cái biết đó thành không, mới thể nhập được chân thể thanh tịnh. Quá trình này có thể chỉ xảy ra trong vài giờ tọa thiền. Nhưng công phu để quá trình ấy có thể xuất hiện trong vài giờ như thế đòi hỏi người tu phải có sự miên mật liên tục, có khi đến hai mươi mấy tiếng một ngày và kéo dài trong nhiều năm. Tùy căn nghiệp thời quá khứ mà cái nhiều năm này là ngắn hay dài, thể nhập là từng phần hay toàn phần.
Cho nên phân Tiểu phân Đại là để người tu biết đích đến mà phát tâm, còn pháp dùng thì tùy duyên. Trong Tiểu có Đại, trong Đại có Tiểu. Linh hoạt được thì an định được thân tâm mà không đánh mất đích đến của mình.
Hóa thân cùng khắp
Tam thân là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân.
Ba thân này thường được nhắc đến trong kinh Đại thừa hơn là Nguyên thủy, bởi đó là hệ quả của việc phát Bồ-đề tâm, hành Bồ-tát đạo và thành tựu quả vị Phật. Điểm nhấn quan trọng trong quá trình này chính là kiến tánh. Kiến tánh, là nhận ra được tánh Phật của chính mình. Dù khi nhận được tánh ấy, chẳng có tánh nào để nhận, chẳng có Phật nào để thấy.
Kinh Lăng-già tâm ấn nêu ba loại ý sinh thân, trong đó ý sinh thân của hàng Bồ-tát Bát địa, có thể thuận tánh khởi dụng, nhập như huyễn tam muội và vô lượng tam muội v.v… hiện tất cả thân như bóng trong gương, như ý tự tại khắp các cõi Phật. Ý sinh thân của Phật thì như hạt châu ma-ni tùy sắc mà hiện, tùy tâm chúng sinh mà ứng.
Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát bản nguyện, Bồ-tát Địa Tạng nói: “Con phân thân hiện hình ra cùng khắp trăm nghìn muôn ức hằng hà sa thế giới. Trong mỗi thế giới hóa hiện trăm nghìn muôn ức thân. Mỗi thân đó hóa độ trăm ngàn muôn ức người… khiến chúng sinh quy kính Tam bảo, khỏi hẳn vòng sinh tử, hưởng vui Niết-bàn”. Trong kinh này Phật cũng nói với Bồ-tát Địa Tạng: “Muốn độ chúng đó ta cũng phân nghìn trăm ức thân, lập ra nhiều phương chước… Ta phân ra nhiều thân độ thoát những hạng chúng sinh mỗi mỗi sai khác như thế. Hoặc hiện ra thân trai, hoặc hiện ra thân gái, hoặc hiện ra thân trời, rồng, quỷ, thần, hoặc hiện ra rừng, núi, sông ngoài, ao rạch v.v… làm lợi ích cho người, độ người được giải thoát”. Việc này tương ưng với ba mươi hai lời nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm v.v… Cũng tương ưng với những gì nói trong luận Đại thừa khởi tín: “Hoặc thấy, hoặc niệm, hoặc làm quyến thuộc, cha mẹ, người thân, hoặc làm người giúp việc, hoặc làm bạn hữu, hoặc làm oan gia, hoặc khởi Tứ nhiếp… cho đến tất cả việc làm với vô lượng duyên hạnh”.
Đọc kinh có khi không hiểu nhưng đọc những đoạn này, với tôi không khó hiểu. Tôi tin những việc như thế. Tin tất cả chúng sinh đều có khả năng biến diệu đó khi sống được với pháp thân của mình. Những câu kinh như thế giúp tôi giải quyết cái nhìn của mình đối với thế giới bên ngoài có trật tự hơn. Tất cả đều có thể là hóa thân của chư Phật và chư Bồ-tát. Đề-bà-đạt-đa luôn phá Phật, nhưng vẫn là hóa thân của một Đại Bồ-tát trong cái duyên của Phật. Đây nói trong cái duyên của Phật. Nghĩa là, không chỉ có thiện pháp mới có giá trị giáo hóa nhân sinh quay về nguồn cội. Pháp bất thiện vẫn có giá trị của nó nếu nó được sử dụng đúng duyên. Vấn đề nằm ở hai chữ “đúng duyên” này. Làm sao để được đúng duyên? Đòi hỏi phải có trí Bát-nhã. Mọi thứ lưu chuyển thế nào vẫn không ra ngoài tánh không mà Nhân-duyên-quả là quy luật chi phối tất cả. Quả có, vì đã có nhân. Nhân là nhân của quả đó. Quả cũng là quả của nhân đó. Không có gì sai lệch khi mọi thứ xuất hiện và biến đi đều thông qua quy luật này.
Trụ ở tánh của tất cả pháp
Trong kinh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát sở thuyết bất tư nghì Phật cảnh giới kinh8, Tu-bồ-đề hỏi Đại trí Văn-thù-sư-lợi:
- Thưa Đại sĩ! Ngài đối với Thanh văn thừa sinh lòng tin hiểu, lại dùng pháp của thừa này mà độ chúng sinh?9
Đại trí Văn-thù-sư-lợi trả lời:
- Này Đại đức! Tôi đối với tất cả thừa đều sinh tâm tin hiểu. Tôi tin hiểu Thanh văn thừa, cũng tin hiểu Duyên giác thừa, cũng tin hiểu Tam miệu tam Phật Đà thừa10.
Tam miệu tam Phật Đà thừa là tên khác của Bồ-tát thừa hay Phật thừa.
Bậc Đại trí tin hiểu cả ba thừa, chẳng chê Tiểu thừa cũng chẳng bác Đại thừa. Thừa nào cũng có thể trụ. Chẳng những trụ Tam thừa mà trụ cả địa vị phàm phu. Vì sao? “Vì tất cả pháp cùng với chúng sinh, tánh chúng là chánh vị quyết định. Tôi thường trụ ở chánh vị này. Vì thế, tôi nói quyết định trụ cả phàm phu địa”11. Tánh của tất cả pháp lìa mọi nhị biên phân biệt, chẳng phải phàm phu địa cũng chẳng phải Tam thừa địa, nhưng không lìa các địa đó. Đó chính là tướng không nói trong kinh Bát-nhã, là Phật tánh nói trong kinh Đại bát Niết-bàn. Trụ tánh vô trụ nên trụ mà không trụ, không trụ mà trụ. Trụ chỗ vô trụ nên tùy duyên mà trụ được tất cả chỗ.
Một câu hỏi nữa được đặt ra cho Bậc Đại trí:
- Thưa Đại sĩ! Nếu tất cả đều là chánh vị quyết định, sao lại kiến lập các địa sai khác mà nói đây là phàm phu địa, đây là Thanh văn địa, đây là Bích Chi Phật địa, đây là Tam miệu tam Phật Đà địa?
Bậc Đại trí trả lời:
- Này Đại đức! Như thế gian, vì có ngôn thuyết nên trong hư không kiến lập mười phương, đây là phương Đông, đây là phương Tây… cho đến đây là phương trên, đây là phương dưới. Tuy hư không không có sai biệt mà các phương có như thế như thế mọi thứ sai biệt. Đây cũng như vậy. Như Lai, ở trong chánh vị quyết định của tất cả mà khéo phương tiện lập ra các địa, đây là Thanh văn địa, đây là Bích Chi Phật địa, đây là Bồ-tát địa, đây là Phật địa. Tuy chánh vị không có sai biệt mà các thừa có sai biệt12.
Lý do vì sao có các thừa, Bậc Đại trí giải thích đầy đủ.
Tam thừa là phương tiện giúp người tu ngược dòng hoàn tịnh, trở lại với cái gọi là “tánh chánh vị quyết định” sẵn đủ trong mỗi người. Tùy sở dục và căn nghiệp của chúng sinh mà lập ra các thừa này. Ba thừa này thuộc xuất thế gian, còn hai thừa thế gian là Nhân và Thiên thừa, gọi chung là Ngũ thừa13.
Tam thừa cũng là phương tiện giúp chư Bồ-tát nương đó giáo hóa chúng sinh. Cần thân Tiểu thừa thì có thân Tiểu thừa. Cần thân Đại thừa thì có thân Đại thừa v.v... Còn chỗ trụ chính của chư vị vẫn là tánh chánh vị quyết định. Tùy nguyện lực và căn hạnh của chúng sinh ở các đường mà hiện thân hóa độ.
Chân Hiền Tâm
_____________
(1) Kinh Trung bộ.
(2) Luận Thành duy thức - HT.Thích Thiện Siêu dịch và chú. Ấn hành 1996.
(3) Sđd.
(4) Sđd.
(5) Trong giáo Tiểu thừa, một vài chỗ đã đề cập đến thức thứ tám, nhưng không khai triển rộng như giáo của Đại thừa. Trong Thập nhị duyên sinh cũng đã ẩn chứa phần thức thứ tám này.
(6) Thắng Man phu nhân hội - Chân Hiền Tâm dịch và giải.
(7) Sđd.
(8) Đại chánh tân tu Đại tạng kinh, quyển 12. No.340.
(9) 大士。汝頗亦於聲聞乘。而生信解。又以此乘法度眾生不。文殊師利菩薩言.
(10) 文殊師利菩薩言。我信解聲聞乘。亦信解辟支佛乘。亦信解三藐三佛陀乘.
(11) 一切諸法及以眾生。其性即是決定正位。我常住此正位。是故我言決定住於凡夫地也.
(12) 大德。譬如世間以言說故。於虛空中建立十方。所謂此是東方。此是南方。乃至此是上方。此是下方。雖虛空無差別。而諸方有如是。如是種種差別。此亦如是。如來於一切決定正位中。以善方便立於諸地。所謂此是凡夫地。此是聲聞地。此是辟支佛地。此是菩薩地。此是佛地。雖正位無差別。而諸地有別耳.
(13) Có chỗ ghép Nhân và Thiên thừa chung thành một thừa, thêm Nhất thừa.