Trần Nhân Tông: Dụng nhân như dụng mộc

Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
 Triều Trần là một trong những triều đại đã tạo dựng được ấn tượng sâu đậm nhất trong lịch sử nước ta với những võ công hiển hách và những câu chuyện đầy tính biểu tượng trong cai trị quốc gia và đối nhân xử thế. Triều Trần cũng là triều đại có nhiều vị vua xuất sắc trên nhiều phương diện và cả những bậc vương giả đã trở thành huyền thoại. Trong số này có Trần Nhân Tông (1258-1308), sư tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Theo Đại Việt Sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Trần Nhân Tông, tên húy là Khâm, sinh ra đúng ngày 11/11. Lúc mới chào đời, "được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng… Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn". Ông lên ngôi  năm 1278 vào mùa đông.

Trần Nhân Tông chỉ ở ngôi có 15 năm, cho tới năm 1293 nhưng đã lập được nhiều võ công hiển hách. Chính trong giai đoạn ông trị vì, quân Nguyên Mông từ năm 1285 tới 1287 đã hai lần táo tợn sang đánh Đại Việt nhưng đều phải ôm đầu máu chạy về nước. Bí quyết thành công không chỉ ở tài năng thiên phú của Trần Nhân Tông mà cả ở đức độ và tinh thần đoàn kết trên dưới trong ngoài của ông đã giúp tạo dựng một sức mạnh vô địch cho Đại Việt.

Trần Nhân Tông đã thu hút được rất nhiều người tài giúp rập cho mình. Chính những người tài này đã giúp nhà vua dẹp yên nhiều nhiễu nhương và rối loạn trong nội bộ quốc gia để khi cần tập trung tổng lực chống giặc ngoại xâm, sĩ khí và trí lực của Đại Việt lúc đó không lúc nào thiếu.

Một thí dụ, vụ chiêu hàng Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang mà sách ĐVSKTT có chép. Số là, sau khi biết Trịnh Giác Mật làm phản, Trần Nhân Tông đã sai Chiêu Văn Vương, Trần Nhật Duật, người có trách nhiệm coi sóc đạo Đà Giang đi dụ hàng. Trần Nhật Duật vốn chẳng lạ gì địa bàn này vì từ lâu ông cũng đã làm được nhiều việc ở đây, ân uy đủ cả…

Hay tin, Mật trong lòng cũng nao núng nhưng vẫn sai người đến quân doanh của Trần Nhật Duật nói cứng: "Mật không dám trái mệnh. Nếu ân chúa một mình một ngựa đến thì Mật xin hàng". Trần Nhật Duật nhận lời ngay, chỉ đem 5, 6 tiểu đồng cùng đi dù các tùy tướng thân cận ngăn lại vì sợ Mật tráo trở, nói vậy mà không phải vậy. Trần Nhật Duật gạt đi hết: "Nếu Mật có giáo giở với ta thì triều đình còn có vương khác đến".

Bất chấp việc người Man dàn vây mấy chục lớp và đều cầm đao thương chĩa vào phía trong để thị uy trong trang trại, Trần Nhật Duật vẫn điềm tĩnh đi thẳng vào, trèo lên trại, buộc Mật phải lễ phép mời ông ngồi. Trần Nhật Duật vốn là một quan gia trí tuệ và trí thức sâu dày, thạo biết nhiều thổ ngữ và am hiểu phong tục của nhiều dân tộc nên đã hành xử với Mật theo đúng kiểu người Man, cùng ăn bốc và cũng uống bằng mũi.

Sau chuyến đi vào hang hùm của Trần Nhật Duật, Mật đã đem gia thuộc đến doanh trại đầu hàng… Sự cố được xử lý êm xuôi không tốn một mũi tên… Trần Nhân Tông cũng đã kịp thời khen ngợi và đối xử rất tử tế với Mật và con cháu của ông này…

Cũng chính Trần Nhân Tông đã sai Hình bộ Thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông Lô  để đuổi cá sấu đi khỏi nơi này. Nguyễn Thuyên là người có công thúc đẩy các sáng tác thơ bằng chữ quốc ngữ từ thời đó…

Trần Nhân Tông rất ưu ái với các tài năng, ngay cả khi những tài năng đó "nhân vô thập toàn". Cung cách mà Trần Nhân Tông đối xử với Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư cũng là theo hướng đó. Ông quan võ có phong độ cướp biển Trần Khánh Dư từng lập chiến công đánh úp quân Nguyên nên đã được Trần Nhân Tông khen ngợi có trí lược, lập làm Thiên tử nghĩa nam.

Trần Khánh Dư sau đó còn dẹp được người Man ở vùng núi nên được phong làm Phiêu Kỵ Đại tướng quân. Đây là chức vụ mà nếu không phải là hoàng tử thì không được phong nhưng vì Trần Khánh Dư là Thiên tử nghĩa nam nên mới được hưởng đặc ân này. Cứ thế Trần Khánh Dư đã được phong lên tới chức Tử phục Thượng vị hầu, quyền chức Phán thủ.

Tuy nhiên, Trần Khánh Dư lại bị mắc tội đầu mày cuối mắt với công chúa Thiên Thụy, khi đó đang là vợ của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai của Hưng Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Trần Nhân Tông trong tình thế khó xử vì rất ngại Trần Hưng Đạo phật ý nên mới bên ngoài thì sai người đánh chết Trần Khánh Dư ở Hồ Tây, nhưng bên trong lại dặn đừng quá tay để Trần Khánh Dư phải chết.

Để làm nghiêm phép nước, mặc dù rất trọng tài năng võ tướng của Trần Khánh Dư, sau vụ này, Trần Nhân Tông đã phải xuống chiếu đoạt hết quan tước, quân tịch thu tài sản không để lại cho một chút gì. Cực chẳng đã, Trần Khánh Dư phải đi làm nghề bán than kiếm kế sinh nhai ở châu Chí Linh…

Một lần, thuyền Trần Nhân Tông đỗ trên bến Bình Than. Lúc đó, nước triều đã rút, gió lồng lộng. Bỗng nhiên vua thấy đi ngang qua là một chiếc thuyền lớn chở than củi mà trên đó là một người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn, trông rất giống Trần Khánh Dư. Trần Nhân Tông mới chỉ và bảo quan thị thần:

- Người kia chẳng phải là Nhân Huệ Vương đó sao?

Rồi vua sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo, đến cửa Đại Than thì kịp. Khi nghe quân hiệu bảo là có lệnh vua triệu thì Trần Khánh Dư đã ngang ngạnh nói:

- Lão là người buôn bán, có việc gì mà phải triệu.

Nghe quân hiệu tâu lại, Trần Nhân Tông không những không nổi giận lôi đình mà lại thốt lên đầy thương cảm:

- Đúng là Nhân Huệ đấy, ta biết người thường tất không dám nói thế.

Và vua lại sai nội thị đi gọi. Khi Trần Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá  đến, vua xót xa than:

- Nam nhi mà đến nỗi này thì thực là cùng cực rồi…

Rồi Trần Nhân Tông xuống chiếu tha tội cho Trần Khánh Dư, ban cho áo ngự, cho ngồi hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước…  Không phải Trần Nhân Tông không biết rõ những điểm yếu của Trần Khánh Dư nhưng với ông, tài làm tướng của ông này là cần cho đất nước trong thời điểm gian nguy phải đối mặt với nguy cơ xâm lược lớn từ phía nhà Nguyên nên ông cũng phải bỏ qua nhiều điều sai quấy của Trần Khánh Dư. Về sau Trần Khánh Dư cũng lập được những võ công không nhỏ…

Mùa xuân năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Hoàng Thái tử Thuyên, về  làm Thái Thượng hoàng. Hoàng Thái tử Thuyên lên ngôi, tức vua Trần Anh Tông. Không còn cần phải ngồi trên ngôi báu nữa, Trần Nhân Tông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình rồi sau đó rời đến Yên Tử, Quảng Ninh. Chính tại đó, ông đã lập ra Thiền phái Trúc Lâm, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này và về sau được gọi cung kính là Phật Hoàng…

Xuất gia rồi, nhưng ông vẫn không sao nhãng việc rèn giũa thế hệ sau. Cũng ĐVSKTT chép về một lần Thượng hoàng (Trần Nhân Tông) từ phủ Thiên Trường bất ngờ trở về Thăng Long năm 1299:

"Các quan trong triều không ai biết cả, vua thì uống rượu xương bồ say khướt. Thượng hoàng thong thả đi thăm khắp các cung điện, từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Cung nhân dâng bữa, Thượng hoàng ngoảnh nhìn không thấy vua, lấy làm lạ, hỏi là Quan gia ở đâu? Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng ngài không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.

Đến giờ Mùi vua mới tỉnh, cung nhân đem việc ấy tâu lên. Vua sợ quá, đi rảo ra khỏi cửa cung không thấy ai coi giữ; qua chùa Tư Phúc, thấy học sinh Đoàn Nhữ Hài ở cửa chùa. Vua hỏi: "Sao ngươi lại ở đây?". Nhữ Hài vội vàng lạy rạp xuống đất tâu: "Thần vì mải học, đi lỡ ra đây". Vua bèn dẫn Nhữ Hài vào buồng ngủ và bảo:

"Vừa rồi trẫm vì say rượu, có tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến trước mặt ngài tạ tội, ngươi hãy thảo cho trẫm bài biểu".

Nhữ Hài đứng trước mặt vua, soạn xong tờ biểu. Vua bèn lấy thuyền nhẹ đi ngay, cho Nhữ Hài theo mình.

Sáng sớm hôm sau, vua tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội. Thượng hoàng thấy Nhữ Hài, liền hỏi là người nào. Nội nhân trả lời là người dâng biểu của Quan gia. Thượng hoàng không nói gì.

Buổi chiều, mưa gió ập đến. Nhữ Hài vẫn cứ quỳ không nhúc nhích. Thượng hoàng hỏi: "Người ở trong sân có còn đấy không?". Nội nhân đáp rằng còn. Thượng hoàng bèn sai nhận biểu để xem, thấy lời lẽ khẩn thiết cho gọi vua vào bảo:

"Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau này?".

Vua rập đầu tạ tội…".

Cũng trong sự cố này, Thượng hoàng đã lại có mặt  sanh tìm ra cho triều Trần một vị quan tài ba lỗi lạc. Đó là Đoàn Nhữ Hài. Sau khi quở mắng con trai là vua Trần Anh Tông rồi, Thượng hoàng mới hỏi:

- Ai soạn biểu cho ngươi?

Nhà vua thật thà thưa: "Đó là thư sinh Đoàn Nhữ Hài". Thế là Thượng hoàng bèn gọi Đoàn Nhữ Hài vào và bảo: "Bài biểu ngươi soạn, rất hợp lòng trẫm". Rồi Thượng hoàng xuống chiếu cho Quan gia lại vẫn làm vua; các quan về triều như cũ…

Sau vụ này, Đoàn Nhữ Hài đã được vua Trần Anh Tông phong làm Ngự sử trung tán, một chức quan rất to đối với một người trẻ tuổi như thế (ông sinh năm 1280)… Đoàn Nhữ Hài về sau còn làm lần lượt nắm giữ các chức vụ Ngự sử trung tán, Tham tri chính sự, Hành khiển, Thiên tử chiêu dụ sứ, Kinh lược Nghệ An… không chỉ ở triều vua Trần Anh Tông mà cả triều vua tiếp theo, Trần Minh Tông. Ông hy sinh trong cuộc chinh phạt Ai Lao năm 1335…

Trần Nhân Tông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân. Các sử gia thời Hậu Lê đã nhận định về ông trong ĐVSKTT như sau: "Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trung hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần".

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Ảnh: Phùng Anh Quốc

Đức Phật dạy lìa xan tham

NSGN - Chữ “xan tham” là cách dịch của Thầy Minh Châu, với chữ xan là keo kiệt, và tham là tham muốn. Cả hai chữ xan và tham đều có nghĩa gần nhau, đều là chấp có cái gì là “ta” và “của ta” và “muốn gì cho ta”.

Thông tin hàng ngày