Âm vang nhịp mõ

0:00 / 0:00
0:00
GNO - Trong tất cả các pháp khí thiền gia, chiếc mõ là một trong những pháp khí quan trọng, được sử dụng thường nhật trong các thời khóa công phu của tự viện. 
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1312 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1312 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn

Khi tiếng mõ được cất lên, hết thảy đại chúng đều nhất tâm xướng tụng theo đúng nhịp trường canh của vị duyệt chúng. Từ đó, mõ cùng với các khí cụ khác đã tạo nên không khí trong buổi lễ thêm phần trang nghiêm, trầm hùng.

Mõ là cách gọi thân thuộc của người Việt, âm Hán là Mộc đạc (木鐸). Từ Đạc (鐸), trong chữ Hán có bộ Kim (金), ý chỉ một nhạc khí bằng kim loại. Ban đầu theo từ điển Thiều Chửu, đây là cái chuông lắc, ngày xưa khi nào ra tuyên mệnh lệnh thì lắc chuông. Đó là khởi nguyên của Đạc - loại nhạc khí này với dáng tròn, có quai và thêm phần rảnh xẻ ngang, khi rung lắc thì phần thanh kim loại được bỏ vào bên trong sẽ phát ra tiếng. Sau quá trình giao thoa văn hóa trong thời gian dài đã hình thành nên chiếc mõ bằng gỗ dựa trên kiểu dáng như chiếc chuông vậy. Do đó, người ta đã thêm chữ Mộc 木 vào trước chữ Đạc 鐸. Hình thành nên cụm từ Mộc đạc (木).

Kim đạc thời Xuân Thu
Kim đạc thời Xuân Thu

Theo Khang Hy tự điển, vào thời cổ đại, khi có trật tự mới, Mộc đạc phải được đánh để cảnh báo mọi người. Mộc đạc là lưỡi gỗ. Đối với các vấn đề dân sự, thì đánh Mộc đạc, và đối với các vấn đề quân sự, thì đánh Kim đạc. Ở các nước theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền như: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam... hình ảnh chiếc mõ hàng ngàn năm đã tồn tại đến bây giờ. Trong Sắc tu Bách Trượng thanh quy (勅修百丈清規) của Hoài Hải Thiền sư, có đoạn: “Mõ tròn bằng gỗ khắc hình con cá mở mắt dùng để tụng kinh, bởi vì loài cá ban đêm thường mở mắt được khắc sâu trên mõ để tụng kinh gõ lên cảnh thức người mê và dẫn chúng hòa âm theo đều”.

Chưa rõ nguyên sơ ban đầu của việc áp dụng hình ảnh con cá vào trong chiếc mõ, nhưng khi nói đến mõ thì ai cùng đều liên tưởng đến hình ảnh con cá. Bởi vì con cá có cấu tạo giác quan mắt không có phần mí, nên dù ngày hay đêm, chúng ta vẫn thấy nó đều mở mắt. Chính nguyên do này, các Tổ đã phương tiện, lấy biểu tượng con cá để vận dụng vào hình ảnh chiếc mõ, nhằm biểu tướng cảnh tỉnh người tu hãy luôn tỉnh thức chánh niệm trong từng sát–na, đoạn trừ trạng thái hôn trầm. Do đó Mộc ngư (木魚) là cách gọi thứ 2 được xuất hiện.

Mộc ngư - 木魚 (Mõ gia trì)

Đầu tiên, mõ gia trì ở các nước từ xưa đến nay rất đa dạng đều với hình thức được điêu khắc 2 con cá hóa long cùng tranh nhau một viên minh châu. Viên minh châu là một trân phẩm đối với góc nhìn của người phàm phu, tượng trưng cho sự ham muốn trần tục mà con người phải chà đạp tranh giành lẫn nhau. Vì biểu tượng đó, khi chúng ta cầm dùi để thức những tiếng mõ ngân vang chính là thức thân và tâm của chúng ta, thức cho những nhiễm ô bên trong được trục xuất để cho người ta đạt đến cảnh giới giác ngộ, thành tựu đạo quả giống như sự tích cá chép nhả ngọc để hóa rồng vượt qua vũ môn.

Thứ hai, giữa hai phần vảy của 2 con cá gần chỗ dùi thức mõ, khi xưa, các Tổ vận dụng điêu khắc một cái vòng khoen xâu cả hai con lại với ý nghĩa trên bước đường tu hành, cần phải có sự cộng tu hòa hiệp, hòa hiệp phải dựa trên tinh thần lục hòa bởi bản chất của Tăng-già là hòa hiệp và thanh tịnh. Ngày nay, hình thức chạm trổ này chỉ còn thể hiện số ít ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam đã không còn xuất hiện. Đối với Việt Nam, từ khoảng đầu thế kỷ XX đến ngày hôm nay, người ta đã thay thế hình thức hoa văn chữ Thọ 壽 viên thể (hình tròn).

Mộc đạc có lưỡi gỗ thời cổ đại
Mộc đạc có lưỡi gỗ thời cổ đại

Thứ ba, điểm đặc trưng lý thú mà chúng ta có thể bắt gặp ở dạng mõ này tại các ngôi chùa cổ như Chúc Thánh, Phước Lâm, Thập Tháp, Pháp Bảo (Quảng Nam)... và những chiếc mõ xưa của Nhật đó chính là 6 hoa văn vòng xoắn ốc. 4 vòng xoắn bên trên ở cuối phần vảy và 2 vòng xoắn bên dưới khoen tròn. Sự xoắn ốc và cộng lại với tổng số bằng 6, thể hiện vận dụng triết lý của lục đạo luân hồi, xoay chuyển trầm luân mãi như vòng xoắn ốc. Khi thức mõ là giúp chúng sanh trong 6 đường đều nghe, đều có thể giác ngộ mà vượt ra khỏi cõi xoay vòng mê mờ ấy.

Thứ tư, phần bên hông của quai mõ ngày xưa được làm rất kỹ. Vảy cá hay còn gọi là cái kỳ được tạo khối dày dặn và nổi hơn, giữa 2 kỳ thì được chạm trổ các hoa văn xếp lớp vô cùng tinh xảo. Đối với các nước ngày nay, hoa văn giữa hai kỳ đã được tinh giảm, đơn giản hóa, đa phần thợ chạm bỏ qua phần này.

Cuối cùng, vì sao mõ khi xưa được sơn màu đỏ (红色). Theo thuyết ngũ hành, màu đỏ tượng trưng cho Hỏa 火, mõ gỗ tượng trưng cho Mộc 木, Mộc sinh Hỏa, theo dân gian tức là mạng Mộc hỗ trợ, thúc đẩy, nuôi dưỡng để mạng Hỏa phát triển và trường tồn. Theo một thuyết khác, Trung Quốc bắt nguồn từ sự tôn kính của người xưa đối với mặt trời và lửa. Các yếu tố này đã được người xưa lưu truyền với một ý nghĩa thiêng liêng, đây cũng là nguồn gốc của ý nghĩa thế tục của màu đỏ “trừ tà và tránh điều xấu”. Còn đối với nhà Phật, màu đỏ tượng trưng mặt trời (日), khi chúng ta thức từng tiếng mõ chính là thức bản thân quay về với giác tánh, quay về với chơn tâm thanh tịnh, làm cho Phật nhựt trường minh, pháp luân thường chuyển. Ngày nay, vì thời cuộc thương mại hóa nên con người ta dần lược bớt những giá trị sâu sắc này, khiến cho những chiếc mõ ngày càng mất vẻ đẹp ý nghĩa nguyên sơ ban đầu.

Ngoài chiếc mõ gia trì thông thường, các nước theo hệ thống Bắc truyền còn có thêm một loại mõ gia trì biến thể từ chiếc mõ ban đầu đó chính là được tạo tác hình 1 con cá uốn cong.

Mõ của chùa Thông Độ, Hàn Quốc
Mõ của chùa Thông Độ, Hàn Quốc

Ngư bang - 魚梆 (Mõ cá dài):

Về hình dáng của chiếc Mõ cá dài, là một hình thức khác so với chiếc Mõ gia trì (木魚), được gọi là Ngư bang (魚梆), Khai bang (開梆), hoặc Ngư bảng (魚板) - chỉ mõ cá dài. Ban đầu, loại này được tạo tác một tấm gỗ phẳng chạm khắc hình con cá dùng để báo hiệu tập hợp đại chúng, theo thời gian, dần dần hình thành nên một hình khối con cá thật sự với chiếc bụng rỗng sẽ tạo được tiếng vang hơn. Về thể thức, hình ảnh con cá ngậm viên minh châu cũng giống ý nghĩa của chiếc Mõ gia trì.

Theo Phật Quang đại từ điển, Ngư bang (魚梆) là dụng cụ được sử dụng trong các ngôi chùa Thiền tông để báo hiệu mọi người tắm rửa, ăn uống v.v… Còn được gọi là Ngư cổ, Ngư bang, Ngư bảng,... Trong các ngôi chùa theo Thiền tông xưa, nó thường được treo trước dục thất để nhằm báo hiệu mọi người biết hiệu lệnh nhằm tắm rửa. Ngày nay, nó cũng thường được treo bên ngoài trai đường trong các ngôi chùa nói chung để báo hiệu giờ thọ trai.

Mõ cá dài của tổ đình Bổ Đà - Bắc Giang
Mõ cá dài của tổ đình Bổ Đà - Bắc Giang

Trong quá trình nghiên cứu nghi lễ Phật giáo xứ Quảng, người viết được một số vị Trưởng lão tại Quảng Nam cho biết, khi xưa, tại chốn Tổ Chúc Thánh, loại mõ cá này được đánh mỗi ngày một lần vào trước thời phổ Phật Ngọ cúng. Khi đánh cử 7 tiếng gồm: 4 tiếng đầu rời nhau, 2 tiếng nhập lại và 1 tiếng kết rời. 7 tiếng tượng trưng cho 7 chữ: Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Đa phần, các ngôi chùa ở miền Trung và Nam Việt Nam đều thuộc tông Lâm Tế, được truyền bởi Thiền sư Nguyên Thiều - Siêu Bạch (1648-1728). Vì tông Lâm Tế được khai sáng bởi Thiền sư Nghĩa Huyền lấy kinh Bát-nhã làm gốc. Ngài đắc pháp với Thiền sư Hoàng Bá – Hy Vận chủ trương “Bát-nhã vi bổn, dĩ không nhiếp hữu, không hữu tương dung”. Do vậy các chùa theo phái Lâm Tế, không chỉ phương thức đánh mõ, ngay cả cử chuông trống, nhị khóa công phu đều được vận dụng giáo nghĩa tư tưởng Bát-nhã.

Gia trì mật niệm tẩy trần tâm/ Mộc ngư khảo hướng chuyển tam luân/ Tề chúng lục hòa tuyên bối diệp/ Tứ sanh cửu hữu lễ kim thân. Có thể thấy, một chiếc mõ tụng kinh chứa đựng một triết lý Phật pháp huyền vi mầu nhiệm. Chính vì vậy, khi tạo tác một tác phẩm nói chung và chiếc mõ nói riêng, điều cần thiết hơn hết đó là khảo cứu kỹ cách làm của người xưa, thấu hiểu được từng ý nghĩa ẩn chứa trong từng đường nét hoa văn, biểu tượng được thể hiện trên pháp khí. Đó cũng là cách bảo tồn và lưu giữ những giá trị của Phật giáo cho muôn đời.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày