Bồ Tát kiến tạo tịnh độ qua tư tưởng kinh Duy Ma

Bồ Tát kiến tạo tịnh độ qua tư tưởng kinh Duy Ma
Kinh Duy Ma Cật đã xây  dựng cõi Tịnh độ mang tính cách tích cực nhập thế. Quan điểm kinh Duy Ma thiết lập là lấy việc giáo hóa con người làm trọng tâm và người thực hiện công việc là Bồ tát. Vì thế, Tịnh độ này rất phổ biến và thực tiễn cho cuộc sống nhân sinh. Điều này được thể hiện qua kinh Duy Ma Cật. Tịnh độ là một trong những chủ đề cốt lõi, xuyên suốt bộ kinh, với mục đích là kiến tạo một thế giới an lạc hạnh phúc giữa nhân sinh thông qua tư tưởng chủ đạo là “Chân không diệu hữu”.

Kinh dạy: “mọi tầng lớp chúng sinh là Tịnh độ của Bồ tát. Vì sao? Vì Bồ tát dựa trên công hạnh giáo hóa chúng sinh mà có được cõi Phật thanh tịnh. Tùy sự điều phục chúng sinh mà Bồ tát có được Tịnh độ. Tùy sự bồi dưỡng trí tuệ cho chúng sinh mà có được cõi Phật thanh tịnh. Tùy sự gieo trồng Phật chủng cho chúng sinh mà Bồ tát có được cõi Phật thanh tịnh” (Kinh Duy Ma Cật, Thích Từ Thông dịch). Thế nên Bồ tát lấy chúng sinh làm nền tảng kiến tạo Tịnh độ, Tịnh độ đòi hỏi phải thiết lập trên tự tâm, nếu tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Vì vậy Bồ tát thực thi kiến tạo Tịnh độ đòi hoi vị đó có đủ tiêu chuẩn gì? Phẩm chất của người thiết lập cõi tịnh như thế nào? Dựa vào đâu để thiết lập cõi tịnh?

Đối với những bộ kinh khác, kinh Duy Ma Cật có một đặc điểm riêng biệt, đó là mở đầu kinh hoàn toàn giơi thiệu về phẩm chất của Bồ tát và đương cơ là Bồ tát chứ không đề cập đến hàng Thanh văn đệ tử nên đã làm nổi bật phẩm chất của Bồ tát và được xác định phẩm chất ưu việt trong hàng ngũ đệ tử Phật. Chỉ có Bồ tát mơi có những khả năng thực hiện được những hoài bão của Phật, đem đến cho chúng sinh sự hạnh phúc an lạc thực thụ. Nhưng phẩm chất ấy được giới thiệu trong kinh mà chúng đại Bồ tát có đủ như: “Đại trí bản hạnh đã hoàn thành cả, thường được uy đức chư Phật xây dựng, làm thành trì mà tiếp nhận giữ gìn chánh pháp, hùng biện như tiếng sư tử gầm, danh tiếng vang động khắp mười phương… gần được tuệ giác tự tại, mười năng lực, bốn vô úy và mười tám pháp bất cộng của Phật, tất cả toàn là những phẩm chất không có gì có thể đồng đẳng, đóng bít ba cửa ngõ của các nẻo đường ác, sinh trong năm đường mà biểu hiện thân hình trong năm đường ấy, làm vị thầy thuốc vĩ đai, khéo chữa mọi bệnh, tùy bệnh cho thuốc làm cho bình phục, làm thành vô lượng công đức, làm sạch vô biên thế giới, ai thấy nghe đều lợi ích, việc làm không có gì mà không hiệu quả, tất cả những phẩm chất như vậy, chúng đai Bồ tát đều có đủ” (Kinh Duy Ma, phẩm Tịnh độ, Trí Quang dịch).

Đoạn kinh đã giới thiệu các Bồ tát có đủ phẩm hạnh, trong đó Bồ tát Văn Thù được giới thiệu sau cùng và nổi bật nhất. Bồ tát Văn Thù là một nhân vật được xem như một bậc đại trí viên mãn, mới có khả năng đi thăm bệnh Duy Ma. Bên cạnh đó những vị Bồ tát có những công hạnh khác nhau, nhưng những công hạnh đó mang tính chất quán chiếu các pháp trong tầm mắt bất nhị, nhìn ra hiện tượng tuy có sự sai biệt nhưng thấu hiểu được bản chất của nó vốn không hai. Cho nên việc thực hành Bồ tát hạnh dễ dàng đi thẳng vào cuộc đời để kiến tạo Tịnh độ không bị chướng ngại. Trong đó còn có một nhân vật đặc biêt nhất và là một nhân vật chính của bộ kinh này, đó là Trưởng giả Duy Ma Cật. Ngài Duy Ma là một vị Bồ tát tại gia, nhưng trí tuệ vượt lên trên cả Bồ tát Văn Thù. Điều này cho chúng ta thấy rằng, kinh Duy Ma Cật đã mở ra môt con đường mới, một con đường giải thoát cho hàng cư sĩ tại gia. Người tại gia cũng có thể đảm đương được công việc Phật sự, cùng sánh vai với hàng Bồ tát. Nói tóm lại, các bậc Bồ tát được giới thiệu là những bậc đương cơ, có những công hạnh phẩm chất tuyệt vời, đều thành tựu đại trí tuệ, đại từ bi, thành tựu được tam vô lậu học, phương tiện thiện xảo, biện tài vô ngại, thành tựu bốn vô sở úy, đầy đủ thần lực, tự tại trên vạn pháp nhằm xiển dương giáo lý Phật Đà, có khả năng hàng phục chướng ma, ngoại đạo, quy hướng chúng sinh về với Phật đạo, đó là phẩm chất mà Bồ tát phải thành tựu trong việc kiến lập Tịnh độ.

Cõi tịnh được kinh Duy Ma giới thiêu khác hẳn với những cõi Tịnh độ khác, bởi nền tảng căn bản để xây dựng cõi tịnh của kinh Duy Ma là ở con người. Tư tưởng này được thiết lập giữa cõi được mệnh danh là "ngũ trược ác thế", nơi mà có sự hiện diện con người đang sinh sống, đang lặn ngụp trong biển khổ, đang sống trong dục lạc và đang bị ngũ dục lôi kéo v.v… thì nơi ấy là Tịnh độ của Bồ tát hay Bồ tát xây dựng cõi tịnh trên đó. Điều này đã làm sáng tỏ về tính nhân bản của đao Phật, nhấn mạnh việc lấy con người làm trung tâm điểm để giáo hóa. Theo tư tưởng của kinh, việc thiết lập Tịnh độ giữa nhân gian, Bồ tát lấy chúng sinh làm nền tảng căn bản, nói cách khác là lấy con người, lấy mọi tầng lớp xã hội làm nơi y cứ để thiết lập Tịnh độ. Sở dĩ như vậy bởi chúng sinh là đối tượng chủ yếu của Bồ tát, nếu lìa chúng sinh thì Bồ tát không thể thực hành hạnh nguyện. Thế nên kinh dạy: “Bồ tát kiến lập Tịnh độ dựa trên công hạnh làm lợi lạc chúng sinh, vì như người muốn xây cất lâu đài phải xây nền móng trên đất. Nếu không có đất thì không thể xây cất lâu dài được” (Thích Từ Thông dịch).

Chúng sinh vô lượng, đủ mọi tầng lớp, mỗi mỗi đều có trình độ căn tánh bất đồng, vì vậy Bồ tát phải tùy từng trình độ căn cơ mà thiết lập phương tiện giáo hóa, tùy duyên đi vào cuộc đời để giải trừ tất cả khổ đau cho chúng sinh, xây dựng cho nền tảng tâm thức của họ môt cảnh giới an vui, nhưng Bồ tát không bị đồng hóa làm mất bản chất của mình, mà còn xây dựng cho mình một năng lực của tuệ giác quán chiếu, bởi đã nhận rõ sâu sắc về bản tính của các pháp vốn không. Thế nên đi giữa bụi trần mà không bị bụi trần bám víu. Ví như hoa sen mọc trong bùn nhơ, độ bùn càng sâu thì giúp cho sen thơm hoa tỏa hương càng nhiều mà không bị bùn nhơ làm mất sự tinh khiết của sen. Bồ tát cũng thế, rõ biết các pháp vốn không, nên không còn chấp thủ mà lại thăng hoa phẩm chất của mình bằng lĩnh vực lợi tha.

Chúng sinh đau khổ vô lượng thì hạnh nguyện của Bồ tát cũng vô biên, phát nguyện dấn thân vào trong đau khổ để giáo hóa chúng sinh mà không môt đòi hỏi hay điều kiện nào đặt ra. Bồ tát quên đi hạnh phúc của mình để lợi ích chung cho mọi người. Hạnh nguyện đó đã thể hiện được đặc chất của Phật giáo. Đạo Phật không xây dựng trên một hệ thống lý thuyết mang tính tiêu cực yếm thế, ngược lại tích cực và đi vào thực tế trong đời sống con người. Kinh dạy: “Vì tuệ giác của Bồ tát mà khởi lên tâm từ, vì cứu vớt chúng sinh mà khởi lên tâm bi, vì giữ chánh pháp mà khởi lên tâm hỷ, vì thâu nhiếp trí tuệ mà khởi lên tâm xả. Vì thâu nhiếp những kẻ tham lam mà khởi lên tâm thí độ. Vì hóa độ những kẻ phạm giới mà khởi lên giới độ…” (Phẩm Bồ tát, Trí Quang dịch).

Như trên đã nói, Bồ tát kiến tạo Tịnh độ là lấy chung sinh làm căn bản. Tuy nhiên, trước tiên phải xây dựng cho mình một số tư tưởng vững chắc về tâm lý. Trong đó, những đức tính căn bản như thành tựu Tứ vô lượng tâm, thành tựu được Sáu Ba la mật, Tứ nhiếp pháp, cho đến tâm hướng về Tứ hoằng thệ nguyện… Có những đức tính đó mới có thể thực thi việc kiến tạo Tịnh độ. Thế nhưng một vị Bồ tát thực hành hạnh nguyện của mình thì không thể thiếu được ba tâm lý cần thiết, đó là trực tâm, thâm tâm va Bồ đề tâm. Kinh dạy: “Tâm ngay thẳng là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Chánh giác thì chúng sinh không dua nịnh vãng sinh Tịnh độ của Bồ tát. Tâm sâu xa là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Chánh giác thì chúng sinh toàn hảo công đức vãng sinh Tịnh độ của Bồ tát. Tâm Bồ đề là Tịnh độ của Bồ tát, khi Bồ tát thành Chánh giác thì chúng sinh Đại thừa vãng sinh Tịnh độ của Bồ tát”(Phẩm Tịnh độ, Trí Quang dịch).

Trực tâm là tâm ngay thẳng, tâm không dua nịnh quanh co, không xiểm trá lường gạt, đố kỵ, ganh ghét, giả dối…, đó là việc làm căn bản của hành giả tu tập. Tuy nhiên, đối với hành giả sơ phát tâm, chưa thuần thục được mà còn có những tính cách phàm phu, nhưng cũng nhờ vào chí hướng thượng nên tâm luôn luôn nuôi dưỡng những tâm nguyện và chánh hạnh hướng về con đường Phật đạo, thì dân dần tạo thành một năng lực chuyển hóa nội tâm. Chuyển hóa những phẩm tính xấu xa, tạo ra cơ hội cho việc thăng hoa trên bước đường tu tập.

Thâm tâm là tâm sâu xa, nghĩa là tâm am hiểu Phật pháp, tâm trực giải Phật lý, tâm hướng về Phật đạo, tâm chánh tín Tam bảo, tâm hướng đến con đường giải thoát. Bằng nghị lực, ý chí kiên cường và quyết định tạo thành một năng lực mà hành giả thực hành Bồ tát hạnh dễ dàng vượt qua mọi cám dỗ của thói hư tật xấu, vượt qua mọi thử thách của cuộc đời, an nhiên đi vào trong sinh tử mà không bị lạc hướng.

Bồ đề tâm là nền tảng căn bản nhất của hành giả tu Phật, là nền móng để Bồ tát kiến tạo Tịnh độ. Bồ đề tâm là hướng thượng, tâm thượng cầu Phật đạo, tâm hạ hóa chúng sinh, tâm giác ngộ giải thoát, tâm tầm cầu trí tuệ, tâm siêu việt nhị nguyên, vì thế Bồ đề tâm không chấp thủ, tâm ấy đặt nặng hạnh nguyện vì lợi ích chúng sinh, dẫn dắt chúng sinh quy hướng Phật đạo, vượt thoát sinh tử. Đó là đơn cử vài đức tính tâm lý của hành giả thực hành hạnh Bồ tát, kiến tạo Tịnh độ.

Nền tảng tâm lý vững chắc, tức là động cơ đã ổn định, tiếp đến là công hạnh tu tập của Bồ tát. Bồ tát đối với các pháp môn tu tập cần phải thô7ng suốt, dùng trí tuệ quán chiếu sâu vào hết thảy pháp thế và xuất thế gian, rõ biết được bản chất của chúng vốn là vô thường, vô ngã, từ đó lìa được chấp thủ. Sự tu tập của hành giả thực hành Bồ tát hạnh ở trong kinh văn nói hầu hết các pháp môn rất quan trọng, như thực hành lục độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Tu tập Tứ vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả. Tứ nhiếp pháp: Bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp, và đồng sự nhiếp. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần và Bát chánh đạo phần. Tu tập các phương tiện thiện xảo, các tâm hồi hướng, tứ hoằng thệ nguyện, tu tập các pháp môn đó tạo cho mình một nội lực tâm thức kiên cố, định lực sâu dày. Sự thực hành này vì mục đích thành tựu Phật quả, vì quy hướng chúng sinh về với Phật đạo, thiết lập cho chúng sinh một ngôi nhà giải thoát kiên cố. Tất cả các pháp môn tu tập này đều phải xây dựng trên nền tảng trực tâm, thâm tâm và Bồ đề tâm. Nhưng công hạnh tu tập này là những chất liệu gạch, ngói, cát, đá, xi-măng để kiến thiết nên cõi Tịnh độ.

Vả lại, vì căn tánh chúng sinh bất đồng, trình độ có thấp có cao, muôn vàn sai biệt, nên Bồ tát phải dùng vô số phương tiện thiện xảo, nhằm đáp ứng nhu cầu đó của họ. Muốn làm được điều đó đòi hỏi Bồ tát phải thông hiểu Ngũ minh: Nội minh, nhân minh, y phương minh, công xảo minh, thanh minh. Nhưng trong đó quan trọng nhất là Nội minh. Chính là sự thông hiểu giáo pháp của Đức Phật là chìa khóa để mở kho tàng tâm thức mọi người. Nhờ sự thông hiểu Ngũ minh mà Bồ tát thực hiện phương tiên để đi vào lòng người, kiến tạo Tịnh độ một cách dễ dàng hơn. Vì thế kinh dạy: “Bồ tát thích ứng các pháp môn Ba la mật mà giáo hóa chúng sinh, thì mọi động tác cất chân lên, để chân xuống, nên biết toàn là từ Đạo tràng mà đến nơi Phật” (Phẩm Bồ tát, Trí Quang dịch). Tóm lại, pháp môn tu tập thì vô lượng, nhưng đòi hỏi hành giả phải thành tựu chủ yếu là Tam vô lậu học: Giới, Định, Tuệ, nhằm mục đích xây dựng Phật quả, kiến tạo một thế giới an lành hạnh phúc cho hết thảy mọi người.

Phẩm chất đã có, nền tảng đã lập, tâm lý đã vững, tiếp đến là quá trình tu tập của Bồ tát. Tức là nói đến bước đường tu tập chuyển hóa của người thực hành Bồ tát hạnh, chuyển hóa những tập khí ô nhiễm được tích tụ lâu đời trở thành tâm vô nhiễm, chuyển hóa những tật xấu của kẻ phàm phu tục tử thành hạnh lành của bậc Thánh… Việc phát nguyện thực hành công hạnh tu tập, trên bước đường tiến tới đạo quả bắt đầu từ tâm ngay thẳng. Tâm ngay thẳng là tâm chân thật, tâm của hành giả như một mảnh vải trắng tinh, không có một vết bẩn nào loang lổ trên mảnh vải đó. Có được tâm ngay thẳng rồi thì mới có thể làm giềng mối để bước vào giải hạnh tu tập.

Như vậy, cõi Tịnh độ được kiến tạo nhờ vào quá trình tu tập, chuyển hóa tâm thức của người thực hành Bồ tát hạnh. Muốn có được tâm thanh tịnh thì hành giả phải trau dồi sức tinh tấn. Nếu không có sự tinh tấn, quả vị Bồ đề khó có thể thành tựu. Nếu không có sức tinh tấn thì không có một công đức nào có thể thành tựu, cũng như không có gió thì làm sao có thể có sự lay động của cây cối. Việc Bồ tát cần phải làm là siêng năng thực hành các hạnh lành, xa lìa sự lười biếng, chán nản, không tin tưởng ở chính bản thân mình. Sở dĩ chúng sinh ưa thích tạo ác, khoái lạc ngủ nghỉ, hay nhờ cậy vào kẻ khác là bởi không có sức tinh tấn. Khi tâm hành giả huấn luyện đến mức xem thân thể chẳng khác gì cỏ cây thì việc bố thí cả đến xương thịt đâu có khó khăn gì, vì thế nghị lực của Bồ tát có được là nhờ vào sự tinh tấn của bản thân trên bước đường tu tập, nhờ vào sức tinh tấn giáo hóa chúng sinh mà Bồ tát thành tựu được tất cả công đức, thiết lập được cõi Tịnh độ giữa xã hội con người.

Việc kiến tạo Tịnh độ bắt nguồn từ tâm thanh tịnh, nếu tâm bình thì thế giới bình, tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Nên kinh nói: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh”. Tâm tịnh là tâm lìa vọng tưởng điên đảo, tâm không phân biệt chấp thủ, tâm chánh tín Tam bảo, tin sâu vào chân lý, tin vào khả năng giác ngộ và đường hương Phật đạo của chính mình. Khi chuyển hóa được tâm thức thì thiện pháp được tăng trưởng, nhờ vậy mới thành tựu được công đức, hồi hướng về cho chúng sinh. Dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, các tự lợi, lợi tha đều được viên mãn thì công đức cũng viên mãn. Đó chính là cõi Tịnh độ hiện tiền.

Đã thành tựu được nền tảng tâm tịnh, việc tiếp theo Bồ tát trực tiếp đi vào cuộc đời để kiến tạo Tịnh độ. Bồ tát thể hiện tâm nguyện của mình trên phương diện tùy thuận chúng sinh mà làm người mô phạm cho chúng sinh noi theo hạnh nguyện đó. Việc giáo hóa chúng sinh không chỉ là những lời nói suông, mà chủ yếu dùng nội lực do tự xâm ấy tu tập để cảm hóa họ, đáp ứng moi nhu cầu tâm linh của họ. Hạnh Bồ tát không chỉ dừng nơi tự lợi mà tất cả đều hướng tâm về sự lợi ích của người khác, sự kiến tạo hay trang nghiêm cõi Phật. Bồ tát hướng tâm về Bồ đề đạo, về quả vị giác ngộ để kiến tạo cảnh giới an lạc thiết thực cho nhân gian. Đồng thời dùng tâm hồi hướng làm thước đo tiêu chuẩn và là chỗ quy hướng đến mục đích cao thượng. Bồ tát hồi hướng đến tha nhân, hy sinh cho tha nhân mà tâm không đòi hỏi, không điêu kiện. Từ đó hành giả mới loại trừ được tất cả sự chấp ngã, chấp pháp. Lấy những cảnh khổ đau của chúng sinh làm những hạnh tu của mình, lấy phiền não của chúng sinh làm quả vị Bồ đề của mình. Lấy việc làm sai lầm tội lỗi của chúng sinh để làm những công hạnh chân chánh của mình. Lấy sinh tử của chúng sinh để thực hiện cõi Niết bàn của mình. Chúng sinh có những thú hướng nào thì Bồ tát tùy thuận vào trong thú hướng đó để làm phap tu cho mình. Nhưng tất cả đều là phương tiện quyền xảo để đưa chúng sinh ra khỏi lầm lạc. Tâm của Bồ tát khi ấy không rời khỏi đạo tràng tịch tịnh. Tâm an trụ trong Tam ma đề, tâm không rời tự tánh thanh tịnh. Thế nên Kinh Phật dạy: “Ở trong sinh tử mà không ô nhiễm, ở trong Niết bàn mà không vĩnh viễn, ấy là hạnh Bồ tát, không phải làm như phàm phu, không phải làm như hiền thánh, ấy là hạnh của Bồ tát” (Phẩm Thăm bệnh, Trí Quang dịch).

Tóm lại, “Chúng sinh bệnh nên ta bệnh, chúng sinh bệnh hết thì bệnh ta cũng hết”. Mô hình kiến tạo Tịnh độ ấy là lấy chúng sinh làm nền tảng căn bản để xây dựng cõi Tịnh trên tâm con người. Bởi đó là một phương thức để Bồ tát thực hanh hạnh nguyện, hướng đến mục đích của mình. Tư tưởng Tịnh độ này phong phú, rất thực tiễn đối với con người. Vì thế cho chúng ta thấy rằng, đạo lý ấy, thái độ tâm lý ấy giúp cho con người xác định được vai trò của họ đối với xã hội, đối với nhân loại và đối với cuộc đời của họ mà không cần phải nhờ vào một ân điển nào. Thế giới đau khổ tăm tối hay hạnh phúc sáng tỏ là do cách nhìn của con người, cách nhìn đó đã xác định vị trí của con người qua thực nghiệm tâm linh mà không qua biểu hiện hình thức bên ngoài. Đó là một đạo lý nhân bản, mở ra một cửa ngõ cho chúng sinh, cho mọi con người hướng đến.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Bài trên Báo Giác Ngộ số 1289 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn

Nói dối do tham

GNO - Nói dối, nói sai sự thật là hành vi khá phổ biến của con người. Vì nhiều nhân duyên khác nhau mà người ta nói sai với sự thật. Có thể do thói quen, thích thêu dệt, do sợ hãi, và nhất là bởi lòng tham.

Thông tin hàng ngày