Bóng nước Thăng Long - đầm hồ Hà Nội

Bóng nước Thăng Long - đầm hồ Hà Nội ảnh 1

Theo một nhà quản lý quy hoạch đô thị, tổng diện tích mặt nước các hồ đầm Hà Nội cũ (chưa tính Hà Tây mới nhập) là hơn 2.000 ha. Riêng về hồ, thống kê 1994 còn hơn 40 cái, nay còn chưa đến 30. Quá trình đô thị hóa ào ạt khoảng hai thập kỷ qua đã san lấp đến quá nửa diện tích mặt nước nói trên…

Nhà văn hóa Hữu Ngọc tuổi 90 cúi mặt sát xuống tập tài liệu dầy cộp trên bàn làm việc, ở khoảng cách gần đến mức đôi mắt cận 25 điốp của ông như sắp biến thành đôi cá nhỏ ngập sâu trong biển kiến thức hàng ngày. Cuốn sách in ronéo khổ lớn, có lẽ không dưới 2 ki lô mở ra trên bàn làm việc của ông. Ông dừng đọc, tiếp tôi mà thần trí như còn lương vương về những gì đang đọc.

Biết tính ông, tôi trao đổi nhanh về mấy việc cần thiết, rồi tạo một khoảng lặng chờ đợi khi hướng mắt về tập tài liệu. Tức thì, ông đập tay xuống cuốn sách dầy, phấn hứng giải đáp câu hỏi chưa thành lời của tôi:

- Ông có biết cuốn này là gì không? Đó là công trình bản luận án tiến sĩ kiến trúc mang tên Từ góc nhìn thành phố - Hà Nội 1873-2006, luận án được bảo vệ thành công tại trường Đại học Paris VIII.

Không nén lâu được sự tò mò, tôi mạn phép ngắt lời ông: “Bác ơi! Nhưng tác giả? Phải chăng là một người Pháp?” Tôi vừa thoáng thấy cái tên Christiane Pédelahore.

Ông Hữu Ngọc cười hóm hỉnh:

- Với tôi thì tác giả này không xa lạ gì, tôi từng… bế cậu bé Christiane này trên tay!

Qua lời kể ông Hữu Ngọc, tôi hình dung ra những năm đầu khi hòa bình lập lại trên nửa nước (1954), quan hệ Việt Pháp được nối lại, có đôi vợ chồng nhà giáo người Pháp Pédelahore tình nguyện sang Việt Nam dạy tiếng Pháp khá thân với ông, “Có hôm tôi vào chơi nhà họ, ông bà đi dạy học chưa về, chú bé đã đòi tôi kể chuyện cổ tích Việt Nam cho chú nghe… Rồi Christiane lớn lên, theo đuổi nghề kiến trúc. Tôi làm báo đối ngoại nên vẫn biết tin những thành công của anh, nổi tiếng về những công trình nghiên cứu kiến trúc các thành phố phương Nam, đặc biệt là kiến trúc Việt Nam và châu Á”.

Cách đây chưa lâu, nhân có việc ghé qua Hà Nội, Christiane tặng bản thảo luận án này cho ông Hữu Ngọc, công trình ba mươi năm lao động của mình, như ghi dấu cái duyên đầu đời đã gặp một người Việt Nam trí thức và nhân hậu đến thế. Tập bản thảo chưa xuất bản đó liệu có bao nhiêu phần trăm tình yêu mảnh đất cậu từng chạy nhảy, lớn lên cùng những chuyện cổ tích Việt Nam?

Ông Hữu Ngọc giở nhanh đến một trang được gấp đánh dấu: “Tôi chỉ đơn cử nhận xét của Pédelahore về ảnh hưởng của các đầm, hồ đối với diện mạo Thăng Long - Hà Nội từ khởi thủy cho đến ngày nay”- ông dịch vo mà vẫn lưu loát về cả sự gợi mở đôi nét (có thể chăng?) của kiến trúc tương lai thành phố: “Đối với những ai chịu khó lắng nghe thì những đầm hồ Hà Nội luôn không ngừng truyền cho họ bức thông điệp sâu sắc sau đây: chúng tôi (đầm và hồ) là xương cốt của thành phố này! Chúng tôi là âm bản của thân thể thành phố này!… Chúng như luôn sống động cho một công trình tái kiến thiết về không gian và xã hội có thể lại được thực hiện trong tương lai”.

Câu chuyện từ đầu có vẻ khô khan với khoa kiến trúc xa lạ với tôi, bỗng như sinh động hẳn lên, nó động đến một cảm thức tiềm ẩn mà chỉ khi đi xa khỏi Hà Nội tôi mới rõ. Thí dụ lần đầu vào thành phố Hồ Chí Minh, chỉ vài ngày sau tôi đã thèm nhớ bóng nước trên mặt hồ quen thuộc của Hà Nội mà đi xuyên nội thành hay ra vùng ven ngoại ta luôn luôn gặp… Quả là có một Hà Nội lung linh trong bóng nước sông Hồng với khoảng ba mươi gương hồ lớn nhỏ: hồ Tây, hồ Trúc Bạch, Thiền Quang, Bẩy Mẫu, Ba Mẫu, Linh Quang, Linh Đàm, Thủ Lệ, Thành Công, Giảng Võ, Văn Chương, Thanh Nhàn… Mỗi gương hồ như đều gắn với một sự tích, một huyền thoại. Mỗi tấm gương ấy đã nhân lên, soi bóng vẻ đẹp “cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ”, rồi những tán phượng la đà nhúng cả những ngọn lá xuống mặt hồ Gươm, rồi sấu, bồ đề, bằng lăng, muồng, nhội, hoa sữa soi mình… Những gương hồ đang bị xâm lấn trong cơn sốt đô thị hóa, nhưng những cái còn lại ở trung tâm đã được cải tạo một phần. Những mặt hồ xinh xắn có hàng liễu rủ thướt tha, nơi đi dạo dưỡng sinh cho các cụ, nơi hò hẹn bên quán cà phê cho những chàng trai cô gái…

Tôi nhớ hồi còn cư ngụ trên căn gác nhỏ phố Nguyễn Siêu, những đêm mưa mùa đông dầm dề, cứ ngỡ ngôi đình vuông cụ Nguyễn Siêu ngồi dạy học vẫn còn đó với tiếng “chi hồ giả dã” của học trò cụ ngày xưa bên bờ con sông Tô Lịch chảy qua chính lòng phố Nguyễn Siêu, Ngõ Gạch ngày nay. Phố Hàng Buồm, nơi cung cấp những lá buồm cho sông Tô, thì ngay bên cạnh. Từ đây, chỉ mấy bước đi lững thững, cụ Nguyễn Siêu đã có thể ra ngắm hồ Gươm và nảy ý tưởng xây Đài Nghiên, Tháp Bút, biểu tượng cho văn hóa Thăng Long với tráng khí Tả Thiên Thanh, rạch trời xanh mà viết!

Cũng ở số nhà 19 Hàng Buồm ấy mới hôm nào chúng tôi mở hội thảo Bóng nước Thăng Long – Hà Nội trong văn học, đề tài nhánh của chủ đề nghiên cứu kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội do Hội Nhà văn Hà Nội đề xuất.

Kiến trúc sư Christiane đặt lãnh thổ Hà Nội vào trung tâm của cái nôi dân tộc Việt Nam, đồng bằng sông Hồng mà thời đồ đá mới chỉ là một vịnh nước sâu. Huyền thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ với 50 người con xuống bể, 50 người con lên núi biểu tượng cho việc chinh phục những đầm lầy qua “cuộc hôn phối giữa đất và nước” mấy nghìn năm tạo nên thảm đồng lúa mênh mông của nền văn minh lúa nước. “Hà Nội là nơi tổng hợp những yếu tố lỏng và đặc, và cũng là nơi những tầng lớp địa chất tiếp tục xếp lên nhau và hình thành nên một hình dáng địa lý tự nhiên trước khi có xây dựng kiến trúc…

Tôi được biết, theo một nhà quản lý quy hoạch đô thị của ta thì tổng diện tích mặt nước các hồ đầm Hà Nội cũ (chưa tính Hà Tây mới nhập) là hơn 2.000 ha. Riêng về hồ, thống kê 1994 còn hơn 40 cái, nay còn chưa đến 30. Quá trình đô thị hóa ào ạt khoảng hai thập kỷ qua đã san lấp đến quá nửa diện tích mặt nước nói trên…

Nói đến văn học viết về bóng nước, mọi người đều nhớ ngay đến tiểu thuyết Bóng nước Hồ Gươm của Chu Thiên, tập bút ký Gương mặt hồ Tây của Trần Lê Văn - Ngô Quân Miện - Quang Dũng, và gần đây tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh. Để dựng lại cảnh quan Thăng Long thời Trần - Hồ, Nguyễn Xuân Khánh buộc phải tìm hiểu bản đồ thời Lê Thánh Tông, đọc Thánh Tông di thảo, Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục… để người đọc hình dung bóng nước Thăng Long ngày ấy lung linh xán lạn đến đâu.

“Thời nhà Trần, ở phía Nam kinh thành Thăng Long có một khu hồ lớn gọi là Đại Hồ (từ vùng cửa Nam hiện nay xuống đến Bạch Mai, đã bị san lấp gần hết dấu tích, nơi có lúc còn gọi là Thái Hồ). Đại Hồ còn to hơn cả Tây Hồ. Thực ra, đó là một hệ thống những hồ ăn thông với nhau gồm nhiều nhánh, ở giữa lại có những đảo đất cao trồi lên… Tùy theo hình thể hoặc địa danh từng nơi, có đoạn gọi là hồ Phượng Hoàng, có đoạn là hồ Bích Câu, có đoạn gọi là Đầm Vạc, Đầm Sậy... quanh năm hơi nước bốc lên, mặt hồ lúc nào cũng phủ hơi sương...”

Các nhà văn của chúng ta đều thấy vị trí quan trọng những đầm hồ Thăng Long - Hà Nội trong cảnh quan chung, mỗi người một mảng, nhưng thường chỉ trên trực cảm, mỹ học và tâm linh.

Trong buổi thảo luận ấy, nhà thơ Trần Lê Văn, một trong ba tác giả Gương mặt hồ Tây, say sưa khi đụng đến đề tài ông yêu thích. Ông nói vui: sông hồ Hà Nội ngày xưa dày đặc đến mức ngày nay Hà Nội có bao nhiêu xe máy thì sông hồ Hà Nội ngày ấy có bấy nhiêu thuyền bè.

Nhà thơ Trần Lê Văn khi làm thơ thì có văn, khi viết văn lại đẫm chất thơ. Ông đã kết hợp sức tưởng tượng nhà văn với sự uyên bác để dựng lại chuyện cả ngàn năm cũ khi vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô:

“Thuyền vua ngược sông Nhị vào ngày thu ấy là phải cặp bến ở khu bắc Đại La. Rất có thể con thuyền ấy, đoàn thuyền ấy đi vào theo sông Tô và đỗ ngay ở chân thành. Tâm trạng nhà vua mới bồi hồi làm sao! Y như con cá đang ở trong ngòi thoắt bơi ra biển cả… Nói đúng hơn thì đây là cá đã đến lúc hóa rồng, phải vượt Vũ môn. Vua đưa mắt nhìn khắp bốn phương như muốn thu cả vũ trụ bao la vào tròng mắt. Bầu trời cao xanh không giới hạn. Mặt đất cũng trải ra, trải mãi ra, không có gì ngăn che tầm mắt. Và ngay đây, ngay trước mắt, hồ nước cũng trải ra, lay động sắc trời. Không gian rộng lớn biết bao! Rộng lớn mà không chống chếnh, đã có sông gần lại có núi xa. Kìa, ở phương Đoài thăm thẳm, uy nghi một khối Ba Vì. Vua xúc động đến ngây ngất trong một ý nghĩ vừa mới đến choán lấy đầu óc ông: từ nay ta làm chủ một kinh đô mới. Trời đất và người đều thuận giúp ta. Kinh đô mới sẽ đẹp và vững như lời ta ghi vào tờ chiếu lộng lẫy dáng mây rồng. Ông nhìn bầu trời mặt nước cuồn cuộn mây mùa thu. Là mây mà lại là rồng, cái vượng khí ấy của núi sông cứ bốc lên trong ánh sáng của ngày đầu tiên trên đô mới. Và cái tên của đô mới chợt đến với nhà vua như một tứ thơ: Thăng Long (Rồng Bay Lên)”... (Trên nẻo đường thành nhà Lý)

Đó là một trang văn hào sảng, đầy cảm hứng!

Chẳng cứ các nhà văn ở Hà Nội, nhà văn trẻ Nguyễn Tham Thiện Kế vùng đất Tổ cũng đan sâu tâm tình với hồ Tây trong một mảng văn: “Một tọa độ mà các yếu tố văn hóa, lịch sử tan hòa vào cảnh sắc, xóa nhòa các lằn ranh khái niệm trong lớp sương mù huyền hoặc nghìn năm, cô kết thành năng lượng tinh thần để cho Hồ Tây có một linh hồn. Hợp lưu của lớp lớp tao nhân mặc khách. Nơi gặp gỡ của chúng sinh phiêu dạt. Đến rồi đi, ai đó cũng được một chút gì của hồ Tây in dấu tâm hồn, khắc ghi da thịt. Kẻ thì đa mang day dứt, kẻ nợ ân tình”…

Thật là một cơ duyên đẹp khi bản luận án kiến trúc Từ góc nhìn thành phố - Hà Nội 1873-2006 của tiến sĩ Christiane Delahore đã động đến cội rễ, đến chiều sâu địa vực và tâm linh của Thăng Long nghìn tuổi, mà những nhà văn tâm huyết với Hà Nội luôn đề cập!

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày