Tổ đình Linh Quang tọa lạc tại số 3 phố Nhà Thờ, được xây dựng từ thế kỷ XVII, là một trung tâm sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, đã đào tạo nhiều thế hệ tiền bối có công đức với dân tộc và đạo pháp. Hiện nhiều hạng mục trong chùa đã xuống cấp nghiêm trọng, cần được trùng tu, tôn tạo để giữ gìn giá trị và bản sắc văn hóa dân tộc. Công trình sẽ hoàn thành vào tháng 10 để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Chùa Bà Đá
Chùa Bà Đá nằm ngay bên cạnh hồ Hoàn Kiếm. Trước kia, chùa thuộc thôn Tiên Thị (còn gọi thôn Tự Tháp hay Bảo Thiên Tự Tháp, thôn Hương Nghĩa) thuộc phường Bảo Thiên, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, kinh đô Thăng Long. Theo các truyền thuyết được nhân dân lưu truyền có kể rằng, trong khoảng thời gian niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1498) đời vua Lê Thánh Tông, chùa chỉ còn là một ngôi am tranh. Khi ấy nhân dân đã đào được một pho tượng bằng đá hình dáng phụ nữ ở đây, dân chúng cho là Thánh Giáng, liền đưa lên thiết lập bàn thờ, xây chùa ngói để thờ phụng. Sau đó, pho tượng này bị mất. Ba thế kỷ sau, đến cuối đời Lê Trịnh (1767 - 1782),khi người dân đào đất chung quanh vườn chùa để lấy đất đắp thành Thăng Longđã tìm thấy pho tượng đá. Người ta cho rằng đây là tượng của Phật bà nên rước vào thờ phụng trong chùa, từ đấy mới gọi là chùa Bà Đá. Khi việc tu tạo ngôi chùa hoàn thành, khách thập phương kéo đến lễ bái ngày càng đông đúc. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, trong cuộc binh đao, ngọn lửa vô tình đã làm cho chùa Bà Đá hóa tro tàn. Chùa bị cháy chỉ còn một nền đất không, cỏ mọc rêu phong. Bấy giờ quan trên bắt dân làm cỏ vườn hoang ấy để sửa sang lại cảnh điêu tàn. Dân làng lại làm nên một ngôi chùa toàn bằng tranh tre, gọi là tỏ lòng kính Phật để có chỗ lễ bái.Năm Quý Sửu (1793), sư tổ Khoan Giai trụ trì chùa, dần dần dựng lên một ngôi chùa ba gian lợp ngói. Năm Tân Tỵ (1821), tổ Giác Vượng kế đăng, được thập phương công đức, bèn lập nên một ngôi chùa rộng lớn hơn, lại làm thêm mấy dãy hành lang và tăng phòng khách xá. Tiếp đấy là tổ Phổ Sĩ lên kế đăng… Từ đây trở đi, chùa Bà Đá hồi phục lại cái vẻ danh lam thắng tích như xưa. Chư tổ lại dạy được nhiều đệ tử nên do sơn môn này bổ đi các chùa ở Bắc kỳ từ đấy càng ngày càng thêm nhiều.
Chùa ngày nay có quy mô tương đối lớn với năm gian tiền đường, bốn gian thượng điện và khu nhà thờ tổ, thờ mẫu nằm gọn trong một khuôn viên khép kín. Chùa không có tam quan như các chùa khác, lối vào là một ngõ hẹp sâu khoảng 9 mét. Mặt chùa hướng về phía Bắc. Kiến trúc độc đáo nhất của ngôi chùa này chính là mái hiên thấp được đỡ bằng bốn chiếc cột đá có kích thước khiêm nhường, tương xứng. Trên cột có các họa tiết chạm khắc rất tinh xảo và mềm mại, miêu tả cảnh bốn mùa và tứ quý.
Trong chùa có nhiều tượng gỗ sơn son thiếp vàng, trên cao có tưọng Tam thế, dưới là tượng Di Đà tam tôn. Sau đó là tượng Đức Phật Thích Ca niêm hoa, có tượng hai ngài bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền ở hai bên. Hàng dưới là Toà Cửu Long, các tượng đều có kích thước lớn hơn so với chùa khác, những pho tượng ở đây mang dáng vẻ riêng rất đẹp và cổ kính. Đặc biệt, nhà Bái đường không có Tượng Hộ Pháp như ở các chùa khác, nhưng có nhiều bia hậu gắn ở tường hai bên. Chùa cũng còn lưu giữ được một số hiện vật quý như hai quả chuông đồng đúc vào năm 1873 - 1881; khánh đồng đúc năm 1842.
Chùa Bà Đá nguyên là chốn tổ của Thiền Phái Lâm Tế một trong hai Thiền Phái lớn của Phật giáo Ở miền Bắc Việt