Trong vườn còn có tháp ba tầng hình lục giác cao 4,5 mét của tổ sư Viên Ngộ (viên tịch năm Thiệu Trị thứ 5 - 1845), xây dựng năm 1846, trùng tu năm 1959, tầng trên cùng chạm nổi dòng chữ “Nam mô A di đà Phật” và tháp tổ Tắc Thành hình vuông, ba tầng, cao 3 mét...
Qua nhiều lần trùng tu nhưng chùa Tôn Thạnh vẫn giữ được đôi nét cổ xưa. Nhà chùa là một tổng thể kiến trúc có mặt bằng gần giống dạng chữ đinh, thứ tự từ trước ra sau bao gồm tiền điện, chánh điện, nhà giảng, đông lang, tây lang mái lợp ngói, tường gạch. Chánh điện có diện tích khá khiêm tốn nhưng lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị, ý nghĩa về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật qua các cột kiểu tứ tượng ở chánh điện, những tượng Phật có từ đầu thế kỷ XIX và các hoành phi câu đối chữ Hán sơn son thiếp vàng. Giá trị nhất là pho tượng Địa Tạng Vương Bồ tát cao 110 cm, đúc bằng đồng. Tương truyền pho tượng này được đúc tới hai lần. Lần đầu đúc xong thì phát hiện phía sau còn có một khe nứt nên khi đúc lần sau, thiền sư Viên Ngộ đã chặt một ngón tay cho vào nồi nấu đồng và lần đúc này đã thành công viên mãn. Trong cả khu chùa có trên dưới 20 cặp đối, trong đó xưa nhất có cặp đối với hai chữ ở đầu mang tên chùa, được phiên âm là: “Tôn tích Như Lai kiến thiết pháp minh đản nguyện dân an quốc thới - Thạnh hưng tam bửu sùng tu diệu điển chỉ kỳ võ thuận phong điều”...
So với nhiều chùa khác ở Nam Bộ, Tôn Thạnh không phải là ngôi chùa cổ nhất, cũng không phải là ngôi chùa có kiến trúc bề thế, nghệ thuật. Song nơi đây từ năm 1859 đến 1862, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đến ở đất Thanh Ba, lấy chùa Tôn Thạnh làm nơi dạy học, làm thơ, bốc thuốc trị bệnh và tham mưu cho nghĩa quân chống Pháp. Và cũng chính tại ngôi chùa này, ông đã sáng tác bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: “Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại ánh trăng rằm; Đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ”; đồng thời hoàn thành thi phẩm nổi tiếng: Lục Vân Tiên. |