GN - Ni trưởng Huỳnh Liên (1923-1987) là vị giáo phẩm Ni thuộc thế hệ đầu tiên của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, được Đức Tổ sư Minh Đăng Quang khai đạo và trở thành Trưởng tử Ni của ngài.
Người sanh trưởng trong một gia đình Nho học uyên thâm, thấm nhuần đạo đức và tin Phật dạt dào. Thuở thiếu thời đã học xong chương trình trung học, giỏi chữ Hán, được bồi dưỡng kiến thức và ảnh hưởng gương sáng của gia đình, khiến nên người con gái trong lứa tuổi đôi mươi ở làng Phú Mỹ đã trở thành thông tuệ, kiến văn sâu rộng, quyết định dõng mãnh cát ái ly gia, sống cuộc đời trắng bạch như vỏ ốc, với hạnh nguyện làm chiếc thuyền từ chở chuyên phái nữ vượt bể khổ sông mê, rồi suốt cuộc đời gắn bó với Đạo, kính Phật, tin Pháp, trọng Tăng, vân du hóa độ chúng sanh không mòn mỏi. Đồng thời với quê hương, góp phần kiên cường đấu tranh đòi quyền sống, đòi hòa bình, dân sinh dân chủ và đòi giải phóng đất nước thân yêu. Một nữ tu tay mềm chân yếu mà suốt cuộc đời kiên định lập trường nhập trần bất nhiễm, tùy duyên bất biến, bất biến vẫn tùy duyên theo định hướng: “Nguyện xin hiến trọn đời mình,
Cho nguồn đạo pháp, cho tình quê hương” thì quả là một vị Bồ-tát nghịch hạnh, một bậc chân tu khả kính, một vị lãnh đạo tài ba, một bậc Thầy ưu việt với công hạnh tuyệt vời, tinh thần bất khuất, trí đức viên dung.
Bản tính vốn thông minh đĩnh ngộ, đức từ rộng bủa độ sanh linh, thương người như Phật thương mình, độ người như Phật độ sinh thuở nào, ánh sáng giác ngộ tu tập của Ni trưởng như hòa quyện cùng nguồn tâm, cùng đức hạnh, cùng hương thơ lan tỏa bốn phương trời, diệu dụng tuyệt vời chuyển xoay nghiệp khổ, cứu độ hàm linh.
“Giăng tay dắt con thuyền hoằng thệ,
thả trên mặt bể, an trí kẻ trầm;
Trải lòng đan chiếc áo từ tâm,
choàng khắp cõi trần, ấm thân người thế”.
(Đường Giải thoát)
Suốt tám năm trường theo bước chân Tổ sư du phương thuyết giáo, qua những bài chơn lý thật sống, bằng những thử thách gay go trên đường hành đạo, Ni trưởng vừa trui rèn chí khí, vừa giồi trau phẩm hạnh hầu khai thị Pháp thân, nối truyền huệ mạng, tuyên lưu giáo pháp Phật-đà, Người đã trở thành pháp khí chốn tòng lâm. Với lòng từ vô hạn, bằng tâm hạnh người Mẹ, người Chị thân thương, Ni trưởng ân cần dạy dỗ chúng Ni và Phật tử về mọi mặt, nào kinh nghiệm tu tập, hành đạo, đối nhân xử thế, tích đức gieo duyên, kinh nghiệm xương minh diệu pháp cho đến mặt chữ nghĩa thi phú văn chương. Thế cho nên bước chân Người đi đến đâu là đạo tràng tịnh xá mọc lên đến đó giống như những búp sen thanh thoát vọt lên từ nước đọng bùn lầy. Đây là điểm thành công đặc biệt của Ni trưởng trong sự nghiệp hoằng pháp độ sanh.
Từ năm 1947 đến 1987, bốn mươi năm hoằng dương Phật đạo, thuyết pháp độ sanh, bốn mươi năm giáo dưỡng chúng Ni, truyền trì mạng mạch, Người đã “lâng lâng tâm cảnh, khăng khăng chí nguyền”. Nhờ bi nguyện bao la, đức độ từ hòa, sức tinh tấn không mòn mỏi, chiếc “Thuyền sen” của Ni trưởng đã vượt qua bao ghềnh thác, vượt sóng cả biển to về bến đỗ an toàn, thành đạt nhiều kỳ công kiên cường, dũng cảm.
Bốn mươi năm vinh nhục khen chê chẳng ngại, khó khăn gian khổ không màng, những chiếc áo vàng của Ni trưởng và Ni giới Hệ phái Khất sĩ đã uyển chuyển hiền hòa trong sương chiều nắng sớm, khi trung thổ, lúc sơn xuyên, xuôi ngược sông Tiền, sông Hậu, băng đèo vượt dốc, đến tận đồi núi Tây Nguyên, hội nhập vào lòng người, hiện diện khắp các tỉnh thành quận huyện, khắp Nam Trung và cao nguyên, duyên hải. Nhờ thuần thục trong nếp tu trong sáng, nhờ nền tảng giác ngộ đoàn kết lợi sanh, nên ánh sáng công hạnh trí huệ của Ni trưởng gieo trồng đến đâu là hoa Giác quả Thiền xinh tươi đơm cành đến đó. Hội chúng xuất gia Ni giới càng lúc càng đông, lên đến cả ngàn; thiện nam tín nữ lớp lớp hàng hàng nương ánh từ quang tinh cần tu tiến. Năm 1987, năm Ni trưởng viên tịch, từ Cam Lộ (tỉnh Quảng Trị) đến Cà Mau đã có 144 ngôi tịnh xá đạo tràng trên 144 thảm đất vàng khang trang thanh lịch, vốn là cơ sở chi nhánh của tổ đình tịnh xá Ngọc Phương, Trung ương Ni giới Hệ phái. Đây chính là sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp của Ni trưởng, cũng chính là hiếu đạo Ni trưởng báo đền Phật Tổ thâm ân.
Ni trưởng có tâm nguyện và năng khiếu chuyển dịch kinh văn, dịch kinh, làm thơ đủ thể loại. Người làm thơ để giáo hóa môn sinh, đem Đạo vào Đời, giúp Đời thấm Đạo, để gởi gắm bổn hoài, gọi hồn dân tộc với tâm hạnh Bồ-tát, và dõng mãnh hành Bồ-tát đạo kể từ năm 1963 góp phần cho lịch sử bước sang trang mới - 1975.
Công hạnh, gương sáng phụng Đạo giúp Đời, chí khí hào hùng bất khuất của Ni trưởng đã được HT.Thích Từ Thông - Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN cảm khái qua câu đối:
“Chí bất khuất vì Hạnh phúc - Tự do, chiếc áo Khất sĩ làm vẻ vang trong Ni giới;
Nguyện kiên cường cho Hòa bình - Độc lập, tấm thân nữ lưu nêu gương sáng chốn tòng lâm”.
Ni trưởng còn để lại cho đời 2.000 bài thơ với nội dung dạt dào Phật chất, pháp vị đậm đà và 1.000 bản văn xuôi với tâm hồn cao đẹp, tình yêu nước dạt dào, tình yêu đạo mênh mang…
Nhà thơ Trụ Vũ đã cung kính tặng Ni trưởng hai câu đối truy tán:
“Khất sĩ chơn truyền, lấy nghĩa non sông làm nghĩa Đạo;
Huỳnh Liên viên mãn, cùng hương trời đất tỏa hương Thơ”.
Nay Ni trưởng đã nhẹ bước nhàn du, cao đăng Phật quốc những ba mươi mùa lá rụng, nhưng tâm tư, nguyện vọng, tình cảm và những di ngôn, dấu ấn khó phai nhòa của Người vẫn còn đậm nét trong tâm thức chúng con, thường hằng soi lối bước cho chúng con an tâm dũng tiến trong hạnh nguyện sứ giả Như Lai, phụng Đạo đẹp Đời.
Bao nhiêu thành quả, bấy nhiêu hương,
Tâm giới đài mây nguyện cúng dường.
Minh chứng, Người ban ân thắng phước,
Thuyền từ vững lái độ trần dương.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 22-3-2017
Tỳ-kheo-ni Tố Liên