Chư tôn Hòa thượng dâng hương tưởng niệm cố HT.Thích Trí Hữu
Cố Hòa thượng thượng TRÍ hạ NĂNG, hiệu HƯƠNG SƠN, tự TRÍ HỮU sinh năm 1913 tại làng Quá Giáng, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 1929, ngài phát nguyện xuất gia tại tổ đình Linh Ứng Ngũ Hành Sơn với bổn sư là Hòa thượng Như Thông Tôn Nguyên và được bổn sư cho theo học tại Đà Thành Phật học viện vào năm 1935, sau đó ra Huế học tại Phật học viện Báo Quốc vào năm 1937. Cùng học với ngài có các Hòa thượng như: Thiện Hoa, Thiện Hòa, Trí Tịnh, Trí Nghiễm, Trí Nghiêm… Ngài thọ Cụ túc giới vào năm 1938.
Sau khi tốt nghiệp Phật học viện Báo Quốc Huế vào năm 1945, ngài vào Sài Gòn cộng tác với tạp chí Từ Quang và làm Giáo thọ sư tại các trường Phật học.
Đến năm 1949, ngài xây am thất tại Vườn Lài đặt tên là am Trí Tuệ sau đổi thành chùa Ứng Quang. Sau đó ngài hiến cúng để thành lập Phật học đường Nam Việt đồng thời là trụ sở Giáo hội Tăng già Nam Việt. Cố HT.Thích Thiện Hòa (nguyên Phó Tăng thống GHPGVNTN) tiếp nhận trùng tu và đổi tên thành chùa Ấn Quang (Q.10, TP.HCM).
Năm 1951, ngài là đại biểu chính thức của Giáo hội Tăng già Nam Việt tham dự Đại hội thống nhất Phật giáo tại tổ đình Từ Đàm Huế.
Năm 1957, do nhu cầu Phật sự tại quê nhà, ngài trở về trú trì tổ đình Linh Ứng tại núi Non Nước Ngũ Hành Sơn. Từ đó, ngài mở trường dạy học, thu nhận đệ tử. Đến năm 1960, khi Phật học viện Phổ Đà (Đà Nẵng) khai giảng, ngài được mời làm Giám viện Phật học viện.
Năm 1961, ngài làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Quảng Nam - Đà Nẵng. Năm 1962, trú trì chùa Pháp Lâm, trụ sở Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam - Đà Nẵng.
Năm 1963, ngài đã lãnh đạo Tăng tín đồ Phật giáo Đà Nẵng đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo. Năm 1964, ngài làm Chánh đại diện Phật giáo Việt Nam miền Liễu Quán.
Năm 1973, ngài được Đức Tăng thống tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng và là thành viên Hội đồng giáo phẩm Viện Tăng thống GHPGVNTN.
Song song với việc tu học, đào tạo Tăng tài, ngài còn dành thời gian dịch thuật kinh sách với những tác phẩm: Lời Phật dạy, Kinh Viên Giác, Kinh Phật địa, Phật học danh số, Duy thức dị giảng và biên soạn cuốn Lịch sử Ngũ Hành Sơn. Tác phẩm Lịch sử Ngũ Hành Sơn là cuốn sách rất có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa của Phật giáo tại núi Ngũ Hành.
Ngài đã được cung thỉnh tại nhiều Đại giới đàn: Giáo thọ A-xà-lê tại giới đàn chùa Long Tuyền - Hội An (1965), Đệ thất Tôn chứng tại giới đàn Phật học viện Hải Đức - Nha Trang (1968), Đệ ngũ Tôn chứng tại giới đàn Vĩnh Gia - Đà Nẵng (1970), Giáo thọ A-xà-lê tại giới đàn tu viện Quảng Đức - Thủ Đức - Sài Gòn (1971).
Ngoài việc khai sơn chùa Ứng Quang (tức là chùa Ấn Quang - Sài Gòn bây giờ), ngài đã vận động đại trùng tu chùa Linh Ứng (1972), khai sơn chùa Hòa Phước (1950), chùa Bảo Minh (1965) huyện Hòa Vang, chùa Từ Quang - Điện Bàn, chùa Bích Trân, chùa La Thọ tại Quảng Nam.
Tháng 10-1975, ngài thọ bệnh và được đệ tử đưa vào Sài Gòn chữa trị. Đến giờ Ngọ ngày 28-11-Ất Mão (1975), ngài đã viên tịch tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn, nơi mà 37 năm về trước ngài đã đặt những viên đá đầu tiên kiến tạo. Trụ thế 63 năm và 38 Hạ lạp.
Sau khi trà-tỳ, di cốt của ngài được phân làm hai phần: một phần thờ tại chùa Ấn Quang và một phần đem về nhập tháp tại chùa Linh Ứng - Ngũ Hành Sơn.
Hàng đệ tử xuất gia của ngài hiện nay còn rất nhiều vị đang hoằng pháp tại trong nước cũng như ở hải ngoại. Tại Mỹ thì có HT.Thích Thanh An, tại Úc thì có HT.Thích Bảo Lạc. Trong nước thì có HT.Thích Thiện Nguyện kế nghiệp ngài trụ trì chùa Linh Ứng, khai sơn các chùa Linh Ứng tại Bà Nà và Bãi Bụt (Đà Nẵng); TT.Thích Thanh Thế khai sơn chùa Thánh Đức ở Đức Trọng, Lâm Đồng; TT.Thích Hoằng Khai, TT.Thích Bảo Quang... đang đảm nhiệm nhiều trọng trách quan trọng tại các trú xứ.
Nguyên Hà