Đêm rằm tháng Bảy

GN - Mùa Vu lan. Bão số năm bất ngờ tràn vào thành phố. Mưa càng lúc càng nặng hạt. Sấm chớp đì đùng, đì đoàng làm mấy cụ già đang ngủ bỗng giật mình, run lật bật ngồi sát vào mé tường nhà lâm râm cầu nguyện.

Gió rú rít qua mái tôn phát ra những âm thanh hù hù, ào ào thật rợn người. Mặt sông bên cạnh trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ em không nơi nương tựa vốn dĩ hiền lành, hôm nay đục ngầu và đầy sóng. Các dãy phòng đều đóng kín.

dem ram.jpg
Đêm rằm tháng Bảy - Ảnh minh họa

Thu mặc áo mưa lật đật ra khỏi phòng, băng qua cái sân rộng đầy sình đất nhão nhoẹt, trơn trợt đi về phía phòng ngủ tập thể. Khổ nỗi, đôi dép Lào dính chặt xuống lớp sình dầy không chịu văng lên. Cô gượng sức giật mạnh. Pựt. Trên đôi chân Thu chỉ còn chiếc quai dép. Mặc. Cô đi chân không băng băng trong cơn mưa tầm tã. Trên vai Thu dưới làn áo mưa đục đục là giỏ bánh tét - hôm nay là ngày rằm tháng Bảy.

- Mấy cô ơi, mở cửa cho con vào. Hôm nay là lễ Vu lan mà, phải ăn bánh uống trà rồi kể chuyện đời xưa cho bớt buồn chớ. Thu nói rất lớn.

- Hoan hô, hoan hô cô Thu, hoan hô… Tiếng cô Sáu Bé cười ha hả.

Một người, hai người rồi cả phòng chui ra khỏi mùng tạo âm thanh rộn ràng rất vui tai. Tiếng người mò mẫm tìm dép, tìm mắt kiếng loạn xạ. Có cô loay hoay chải lại mớ tóc bạc cho gọn gàng. Nghe động, mấy chú, mấy bác phòng cạnh bên cũng lục tục kéo sang chung vui. Họ đâu còn ai để chia ngọt sẻ bùi trong ngày này, nhất là trong cái cảnh gió mưa đầy đất, đầy trời như bây giờ. Những chiếc bánh đem ra đã lâu, những ấm trà đặc kẹo, thơm phưng phức giờ cũng nguội dần. Không ai nói với nhau một lời, chỉ còn những ánh mắt vô hồn, thẫn thờ, tiếc nuối nhìn vào khoảng đêm đen mù mịt bão bùng.

- Tui nhớ quê quá. Chẳng biết khi nào mới về được. Mà... mà... Giọng chú Sáu Đắk Lắk buồn buồn cất lên phá tan bầu không khí nặng nề.

Đến giờ cũng không ai biết tên chú là gì, bởi chú lúc tỉnh, lúc mê. Chỉ biết lúc tỉnh, chú kể quê mình ở ngoài miền Đắk Lắk quanh năm với rừng núi, với bạt ngàn cà-phê. Khi Nhà nước quy hoạch mấy chục công cà-phê làm khu du lịch sinh thái gì đó, tự dưng chú trở thành “tỷ phú” vùng này. Mà đâu chỉ có chú, cả cái xóm này, ai cũng như chú hết. Chín đứa con xúm xít bàn tán lời ra tiếng vào khiến chú xiêu lòng chia cho mỗi đứa mấy trăm triệu làm ăn. Chú nghĩ, tụi nó mồ côi mẹ đã là điều bất hạnh, thôi thì cho chúng mớ vốn làm ăn. Phần chú chừa lại chút ít xuống thị trấn thuê nhà ở trọ. Già rồi ăn ở có bao nhiêu. Lúc dọn đi, cả lũ con khóc lóc tấm tức, nước mắt chảy bù lu bù loa.

- Ba cứ yên tâm, tụi con hứa sẽ làm ăn đàng hoàng, mỗi tháng sẽ chu cấp đầy đủ cho ba lúc tuổi già bóng xế. Thằng con cả sụt sùi.

- Lúc nào thấy không khỏe, ba gọi điện, tụi con sẽ về ngay. Đứa con gái kế nức nở.

Chú lặng lẽ không nói gì. Nỗi buồn tràn ngập. Linh tính mách bảo chú sắp mất đi đám con mà mấy mươi năm vợ chồng chú dãi nắng dầm mưa nuôi chúng lớn khôn. Không đứa con nào mở miệng rước chú về phụng dưỡng. Chú buồn đến cháy ruột cháy gan. Bỏ xứ ra đi, gia tài quý giá nhất chỉ còn di ảnh người vợ Ba Na quá cố. Đêm về, trong căn nhà trọ ẩm thấp, tối tăm, chú ngồi thì thầm, thở than với người đã mất để vơi nhẹ nỗi buồn trống vắng. Mấy năm trôi qua, tiền bạc cạn dần, dù chú đã hết sức tằn tiện. Đau bệnh không dám uống thuốc. Thèm cũng không dám ăn uống. Cái sức khỏe lực điền của người đàn ông vạm vỡ đã suy kiệt ở cái tuổi bảy mươi. Không một đứa con nào thăm viếng. Gọi điện cũng chẳng thấy ngó ngàng. Chú quyết định tom góp số tiền ít ỏi còn lại rời nhà trọ xuống thành phố mưu sinh. Chân ướt chân ráo tới đô thành, chú bị bọn móc túi lấy sạch tiền dù đã gói chúng cẩn thận bằng mấy lớp bọc ny-lông, nhét sâu trong cái giỏ đệm cũ mèm. Chú lơ thơ lẩn thẩn, cười rồi khóc một mình. Người ta đưa chú vô bệnh viện tâm thần. Mấy tháng sau thấy chú thuyên giảm nên đưa chú vô đây.

- Bây giờ khỏe rồi. Sao chú không về ngoài đó? Dù gì cũng còn mấy đứa con, đứa cháu. Thu hỏi.

- Về làm gì với lũ con bất hiếu. Tui coi như hổng có đứa con nào. Mặt mũi đâu mà nhìn hàng xóm nữa.

Chú nói khẽ khàng. Đôi mắt rưng rức nỗi buồn và xa xăm đến lạ lùng. Chú lại giường mình lấy ảnh vợ ra ngắm nghía rồi bật khóc vì nỗi xót xa, cô đơn tràn ngập.

Thu nghe lòng mình đắng nghét. Đâu chỉ có chú Sáu Đắk Lắk cô đơn. Ở đây còn có hàng chục người khác cũng cô đơn như chú, có người đã vĩnh viễn nằm lại đất này sau bao năm gần gũi, một sự gần gũi mà một người bình thường sẽ không bao giờ nghĩ đến vì sẽ cô đơn đến cháy lòng trong quãng đời còn lại. Công tác ở đây đã hai mươi mấy năm rồi, Thu thuộc lòng “ lý lịch trích ngang” của từng hoàn cảnh éo le, bất hạnh đang nương tựa chốn này. Chú Ba Sấm quê ở miền Trung, sau trận lũ lụt lịch sử không còn nhà cửa, chú bỏ quê vô đây bán bánh lá gai - vốn là đặc sản quê mình - với hy vọng mỏng manh dành dụm tiền gởi về quê dựng lại căn nhà bị lũ cuốn đi. Cơn bệnh gan đến bất ngờ. Hội Từ thiện biết chuyện lo chạy chữa và đưa chú vào trung tâm hơn ba năm qua.

Cô Sáu Ảnh ở Cà Mau thì khác. Con đàn cháu đống, giàu kếch sù ở cái chợ trung tâm. Mảnh đất mặt tiền do Nhà nước cấp cho cô - một nữ thương binh anh hùng với thương tật hai trên bốn được thay thế bằng căn nhà lầu năm tầng to đùng nhờ sự khéo léo làm ăn của đám con. Mà suy cho cùng, chúng đã làm ăn thành đạt nhờ một phần cái bóng của mẹ chúng. Ngặt cái chuyện đám con luôn bực mình với bà mẹ quê mùa, ăn nói mộc mạc, quanh năm không chịu tắm xà-bông thơm và cứ gội đầu bằng bồ kết trái, quần áo mới không mặc, chỉ luẩn quẩn mấy bộ đồ bà ba với cái khăn rằn. Vậy là cãi nhau hàng bữa. Chúng bàn nhau đưa cô vô đây cho hợp ý. Cô đồng ý. Thà vậy còn hơn. Cô không đôi co, bàn luận gì với chúng, nói chúng có nghe đâu. Hàng tháng cũng chẳng đứa nào tới thăm, chỉ gọi điện nói chuyện bâng quơ, kể chuyện làm giàu, mua đất, sắm xe, đi du lịch nước ngoài, thỉnh thoảng gởi bưu điện vài triệu đồng cho mẹ thèm gì ăn nấy. Cô uất nghẹn. Cô giận lắm, gọi điện về quê mắng chúng một mạch rồi gởi trả lại tiền và điện thoại. Tới nay, đám con cũng biền biệt. Cái thứ mình cần là sự hiếu thảo thực sự của lũ con, vậy mà cô không có được. Mấy mươi năm kháng chiến, hy sinh không sợ, thương tật không màng, vậy mà giờ đây cô lại sợ nỗi cô đơn giữa chốn phồn hoa đô hội này.

Thu nhớ rõ lắm những lần túc trực bên giường bệnh khi các cô chú lâm bệnh nặng, có người cứ mê sảng gọi tên người thân trong nỗi tuyệt vọng chán chường, có người nóng nảy còn hất cả những ly sữa, chén cháo vào mặt cô như một sự trút giận chưa bao giờ có. Có người trước lúc mất đi còn nắm chặt lấy bàn tay Thu không chịu buông như một sự biết ơn lớn lao mà cô đã mang đến cho họ trong thời gian qua. Mỗi ngày đi qua những cái giường trống không ấy, Thu lại khóc, lại xót xa cho những phận người không may mắn.

- Sao cháu không lấy chồng đi. Bộ tính ở “giá” luôn hả? Chú Năm Sự quê ở  Bến Tre trêu chọc.

- Con mà lấy chồng thì còn ai bầu bạn cùng cô chú, rồi ai ca vọng cổ cho chú đờn mỗi đêm?

- Ờ, biết là vậy, nhưng thấy bây cực khổ, hổng chồng, sao thấy tội nghiệp quá trời.

- Con quen rồi, có chi cho nó cực, lỡ gặp người hổng biết lo thì khổ gấp đôi, số con vậy rồi.

Nói để chống chế, đỡ tủi thân chớ Thu cũng buồn và cô đơn lắm. Phụ nữ ai chẳng vậy. Tuổi cỡ cô có người đã làm bà nội, bà ngoại rồi, còn Thu... Lấy ai bây giờ với cái tuổi ngót nghét bốn mươi lăm. Đến giờ cô cũng không biết quê quán của mình ở đâu nữa. Cha mẹ là ai Thu cũng mù tịt. Chỉ biết cô đã lớn lên và được cưu mang tại ngôi chùa nhỏ bên cạnh dòng kênh nước đen thui khai ngấy. Nghe sư cô trụ trì kể lại, vào một đêm mùa thu mưa bão, có một người phụ nữ trẻ lặng lẽ bỏ đứa bé vào cái ruột xe hơi bên dưới được lót bằng một tấm ván các-tông rồi đẩy ra dòng nước đen đủi đang chảy xiết. Cạnh đó, một người đàn ông đứng đợi. Rồi cả hai lên chiếc xe đạp đạp nhanh như trốn chạy. Sư cô lật đật gióng chuông rồi tất tả bơi ra dòng  kênh hôi hám ấy để cứu lấy một sanh linh bé nhỏ đang dần tím tái. Đó là Thu. Cái tên Nguyễn Thị Thu cũng do sư cô đặt để nhớ về cái đêm mùa thu hung tợn ấy.

Tốt nghiệp trung học y tế, Thu tình nguyện ở lại chăm sóc trẻ em mồ côi tại chính ngôi chùa đã làm sống lại cuộc đời cô như một sự trả ơn không đoạn kết. Tại ngôi chùa này, Thu đã chứng kiến bao trường hợp bị bỏ rơi trước cổng chùa, bên dòng kênh định mệnh ấy, có đứa khỏe mạnh, bụ bẫm, có đứa suy kiệt xanh dờn, có đứa đã bị nhiễm HIV, sống với Thu một thời gian rồi lại ra đi vĩnh viễn. Nhiều lúc cô nghĩ, có lẽ mình sinh ra để lo toan, nghĩ ngợi, chăm sóc cho mọi người và chứng kiến biết bao giờ phút sinh ly tử biệt. Cách đó ít năm, sư cô khuyên Thu nên đến với trung tâm chăm sóc người già không nơi nương tựa này để hoàn thành tâm nguyện của mình.

Yêu chăng? Thu cũng khát khao một mái ấm gia đình, cũng khát khao làm vợ, làm mẹ như bao người phụ nữ bình thường khác. Nhưng có lẽ cô không gặp may, mà nói cho đúng hơn là không có cơ hội để đến với vận may, dù chỉ một lần. Tất cả thời gian, tất cả cuộc đời, cô đã vun vén niềm tin cho những người bất hạnh xung quanh. Mỗi ngày, sau công việc chăm sóc cho các cụ, Thu lại lặng lẽ trong căn phòng nhỏ để nghe nỗi cô đơn ùa về giày xéo, trêu chọc. Đã lâu lắm rồi cô không dám soi kiếng, Thu sợ bắt gặp hình ảnh già cỗi trước tuổi của mình trong chiếc kiếng vô tình và phũ phàng ấy.

- Thôi, đừng buồn nữa các cô, chú. Vu lan tới mà ai nấy buồn so thì mất vui. Để con ca một bản vọng cổ “Dệt chặng đường xuân” nghe cho vui. Chú Năm ơi, chuẩn bị đờn nghe chú.

Cả phòng vỗ tay lốp bốp, tạo những tiếng kêu thật vui tai, ngộ nghĩnh. “... Em ra đi khi gà chưa gọi sáng. Trăng mùng Mười còn giỡn nước giữa đầm sen…”. Tiếng hát Thu trầm ấm làm sao, nhiều cô chú mủi lòng len lén chậm hai hàng nước mắt. Tiếng đàn ghi-ta mùi mẫn buồn buồn lan tỏa trong căn phòng xua đi cơn gió lạnh đang lùa qua các khung cửa sổ. Chú Hai Hóa gõ song loan bằng cái muỗng canh vô cái chén nghe cái cốp mỗi khi xuống nhịp. Cô Sáu Ảnh mơ màng đăm đăm đôi mắt nhìn về khoảng không đen thăm thẳm, miệng lẩm bẩm cầu nguyện “...Nam-mô A Di Đà Phật cứu khổ cứu nạn... Nam-mô...”.

Mấy mươi mảnh đời khác nhau, quê quán khác nhau, bất hạnh cũng khác nhau nhưng cùng nỗi cô đơn đang hòa quyện về đây trong phút giây này. Mưa đã tạnh. Bão dần tan. Gió không còn rú rít. Màn đêm như mỏng dần và tan đi.

Trên khoảng tối chập chờn, những con người đang sống giữa phồn hoa đô thị nhưng đang chơi vơi giữa biển đời cô đơn lạc lõng trong đêm rằm tháng Bảy.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Sà lan chở nước ngọt từ Đồng Tháp về xã đảo Hưng Phong, H.Giồng Trôm, Bến Tre để hỗ trợ bà con vùng hạn mặn

Vận chuyển nước ngọt bằng sà lan để hỗ trợ bà con vùng hạn mặn H.Giồng Trôm, Bến Tre

GNO - Được sự tài trợ của đoàn thiện nguyện tại TP.HCM do anh Huỳnh Trung Nghĩa làm trưởng đoàn, Đại đức Thích Vạn Bình, trụ trì Phước Long cổ tự (H.Giồng Trôm, Bến Tre) đã phối hợp với UBND xã đảo Hưng Phong tổ chức trao nước ngọt và thùng nhựa cho bà con tại địa phương vào ngày 23-4 vừa qua.
Chư tôn đức niệm Phật cầu gia hộ

Khai mạc Hội nghị sinh hoạt Giáo hội khu vực phía Nam năm 2024

GNO - Sáng nay, 25-4, tại Văn phòng II TƯGH - thiền viện Quảng Đức (Q.3, TP.HCM), Ban Thường trực Hội đồng Trị sự tổ chức khai mạc Hội nghị sinh hoạt Giáo hội khu vực phía Nam (từ Quảng Trị đến Cà Mau) nhằm triển khai nhiều hoạt động Phật sự quan trọng.
Chư Tăng thực hiện nghi thức Bố-tát tại chánh điện chùa Long Bửu (Q.4, TP.HCM) - Ảnh: Bảo Nguyên

Chư Tăng Ban Trị sự GHPGVN Q.4 Bố-tát, họp triển khai Phật sự

GNO - Ngày 15-3-Giáp Thìn, chư tôn đức Ban Trị sự GHPGVN Q.4 đã trở về chùa Long Bửu - Văn phòng Ban Trị sự để cử hành lễ Bố-tát định kỳ, đồng thời tổ chức phiên họp nhằm triển khai công tác tổ chức Đại lễ Phật đản và An cư kiết hạ Phật lịch 2568.

Thông tin hàng ngày