GN - Hệ phái Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập vào giữa thập niên 40 của thế kỷ XX. Kể từ khi Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng (1954), xuyên suốt 60 năm tiếp tục sứ mệnh nhập thế, 7 giáo đoàn (6 giáo đoàn Tăng, 1 giáo đoàn Ni) của Hệ phái Khất sĩ với lưỡng bộ Tăng Ni đã đào tạo hơn 3.200 Tăng sĩ và xây dựng trên 500 ngôi tịnh xá.
Sự phát triển nhanh chóng này cho thấy, phương pháp hành đạo của Hệ phái Khất sĩ chú trọng “nhân thừa”, mang phong cách bình dân, tụng niệm bằng thi ca, đầu đội trời, chân đạp đất, ba y một bát thong dong trên mọi nẻo đường, ăn chay thuần tịnh, giảng pháp đi vào lòng người… có khả năng chuyển hóa nhân tâm, đặc biệt là quần chúng bình dân ở miền Nam.
HT.Thích Trí Quảng phát biểu chào mừng Hội thảo - tại lễ khai mạc sáng nay, 25-2 - Ảnh: Vũ Giang
Nhờ đường lối này, ngày nay, các tịnh xá của Hệ phái Khất sĩ đã có mặt hầu hết tại các tỉnh từ Cà Mau cho đến tỉnh Quảng Trị. Trong tương lai, Hệ phái Khất sĩ có khả năng phát triển và có mặt tại các tỉnh thành còn lại của đất nước.
Đồng hành với dân tộc trong mái nhà GHPGVN vừa là chủ trương của Hệ phái Khất sĩ, cũng vừa là cách giúp cho Hệ phái Khất sĩ phát triển toàn diện và mạnh hơn. Về tổ chức Giáo hội, Hệ phái Khất sĩ từ những năm tháng hình thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chư tôn đức Tăng Ni Hệ phái Khất sĩ là thành viên sáng lập Giáo hội.
Suốt 7 nhiệm kỳ GHPGVN từ năm 1981-2012, các vị tôn túc Hệ phái Khất sĩ đã được suy tôn làm Phó Pháp chủ, được bầu chọn làm Phó Chủ tịch HĐTS, các Phó Trưởng ban Trung ương Giáo hội, Trưởng ban Trị sự, Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tại các tỉnh thành.
Về phương diện giới luật, Hệ phái Khất sĩ sử dụng giới bản của Đại thừa với những điểm dị biệt không đáng kể. Về văn hóa y phục và ẩm thực, Hệ phái Khất sĩ ăn trường chay như Đại thừa, quấn y gần giống với phong cách truyền thống của Phật giáo Ấn Độ.
Đây là sự dung hòa giữa hai bản sắc văn hóa Đại thừa và Nguyên thủy trong Hệ phái Khất sĩ. Về phương pháp tu trì, Hệ phái Khất sĩ chủ trương song hành niệm Phật, một phần của pháp môn Tịnh độ với ngồi thiền vốn là sự cộng thông trong phương pháp hành trì Nguyên thủy và Đại thừa.
Về Nghi thức tụng niệm, Hệ phái Khất sĩ sử dụng phần lớn các kinh thuộc nghi thức Bắc tông, bao gồm kinh Phổ môn, kinh A Di Đà, kinh Vu lan, kinh Đền đáp công ơn của cha mẹ thuộc bản dịch của Tổ Huệ Đăng và Hồng danh sám pháp - nghi thức sám hối thông dụng tại các chùa Đại thừa.
Đóng góp mới của Nghi thức tụng niệm Hệ phái Khất sĩ là bổ sung Nghi thức cúng dường, Nghi thức cúng cửu huyền, Nghi thức thọ trì và các kệ tụng. Sử dụng thi ca trong Nghi thức tụng niệm của Hệ phái Khất sĩ đã giúp cho hệ phái này được quần chúng tiếp nhận mà không bị bất kỳ rào cản nào về ngôn ngữ Hán-Việt như trong nghi thức Đại thừa, hay văn tự Pali Việt như trong nghi thức Phật giáo Nguyên thủy.
Những nét tương đồng và tính đặc thù của Hệ phái Khất sĩ so với truyền thống Đại thừa và Nguyên thủy tại Việt Nam nêu trên là chủ trương làm đạo, vừa mang tính kế thừa truyền thống, vừa phát huy tính sáng tạo trong nhập thế.
Sự phát triển của Hệ phái Khất sĩ trong 70 năm qua tại Việt Nam là một minh chứng về sự vận dụng trí tuệ phương tiện trong độ sinh, nhờ đó, cũng trong cùng bối cảnh xã hội và chính trị Việt Nam, Hệ phái Khất sĩ đã có một bước phát triển đều đặn, năng động và hiệu quả so với các hệ phái và sơn môn pháp phái khác của Phật giáo Việt Nam.
HT.Thích Trí Quảng
(Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN)
......................................
(*) Trích phát biểu chào mừng tại Hội thảo khoa học: Hệ phái Khất sĩ - Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, tựa của GN.