Hòa thượng Thích Từ Ý: “Ngày đó, chư Tăng đi an cư còn phải mang theo gạo”

0:00 / 0:00
0:00
GNO - Đó là ký ức về một thời khó khăn nhưng trọn đạo tình, nghiêm mật thực hành giới luật của chư Tăng, từng được cố Hòa thượng Thích Từ Ý kể cho chúng đệ tử...

Bấy giờ, đất nước mới thống nhất, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, chư Tăng Ni phải tham gia lao động sản xuất rất vất vả. Tổ chức sinh hoạt của các chùa rời rạc, theo kiểu tự tu chứ không có bất kỳ một điểm an cư kiết hạ tập trung nào.

Hòa thượng Thích Từ Ý (1918-1990)
Hòa thượng Thích Từ Ý (1918-1990)

Năm 1976, Hòa thượng Thích Từ Ý được GHPGVNTN Quảng Nam - Đà Nẵng suy cử làm Chánh Đại diện Thị hội Phật giáo Tam Kỳ. Không đành lòng nhìn cảnh tan tác của Phật giáo, Hòa thượng đã động viên chư Tăng trong khu 3 tập trung về chùa Từ Quang, xã Tam Ngọc (nay là phường Trường Xuân) để an cư kiết hạ (cung thỉnh Hòa thượng Thích Thiện Duyên làm Thiền chủ, ngài làm Hóa chủ). Đáng nói là bấy giờ mỗi hành giả vào trường hạ an cư đều phải đem theo gạo vì không có tín chủ nào hiến cúng.

Những năm sau đó, dù an cư tại chùa Từ Quang hay chùa Tịnh Độ, Hòa thượng cũng đều đảm nhận trách vụ Hóa chủ. Nhờ sự vận động của Hòa thượng, Phật tử đã trở về chùa, phát tâm cúng dường tứ sự lên chư Tăng, nên từ đó hành giả an cư không còn phải mang theo gạo nữa.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, câu chuyện mà Hòa thượng kể lại đã diễn ra cách đây gần 50 năm. Vị Hòa thượng đức độ khả kính với ánh nhìn từ bi, giọng nói nhẹ nhàng ấy cũng đã viên tịch tròn 35 năm! Thời gian trôi nhanh như gió thoảng, ấy vậy mà sự nghiệp hoằng pháp độ sanh của Người thì vẫn còn ghi tạc trong lòng biết bao thế hệ như dao khắc đá, chưa bao giờ phai nhạt.

Hòa thượng vốn có duyên với Tam giáo. Năm 16 tuổi, ngài được cha mẹ cho đến học đạo với thầy Thái Như Đào, trụ trì chùa Tế Nam - ngôi chùa thuộc Tam giáo ở xã Tiên Kỳ, Tiên Phước, Quảng Nam (nay là xã Tiên Phước, TP.Đà Nẵng). Hơn 15 năm hôm sớm thân cận cảnh chùa, Hòa thượng đã góp công ghi nhiều dấu ấn, đáng kể nhất là việc di dời chùa Phú Sơn trên núi Năm Mú về núi Bàu Đá như hiện nay.

Nguyên khi chùa còn tại Phú Sơn, những người tu tập ở đó thường hay đau bệnh, đỉnh điểm là có lúc đến tận 3 người mất mạng. Các thầy và Phật tử muốn di dời chùa nhưng gặp nhiều trắc trở vì người dân ở đó không chấp thuận. Cuối cùng, Hòa thượng đã vận động kinh phí, xây dựng cho làng một ngôi trường học, người dân mới thuận cho dời chùa. Sau 2 tháng, trường được xây xong và chùa cũng di dời thành công, nhưng do kinh phí cạn kiệt, chùa mới phải dùng tranh tre che tạm để có nơi tu tập.

Đến năm 1950, khi đã bước qua cái tuổi tam thập nhi lập, ngài quyết sắp xếp mọi việc trong gia đình, xin thầy Thái Như Đào xuất gia tu học. Thầy Thái Như Đào tuy tu theo Tam giáo, nhưng nhận thấy Tam giáo lúc này đã suy yếu, nên thương mà dẫn ngài ra Đà Nẵng xuất gia với Trưởng lão Hòa thượng Thích Tôn Thắng - khai sơn, trụ trì chùa Sắc tứ Phổ Thiên, nay là chùa Phổ Đà (Đà Nẵng). Đây là cơ sở Phật học viện của Hội Đà Thành Phật học và Quảng Nam - Đà Nẵng sau này. Ngài được Bổn sư ban cho pháp danh Tâm Niệm.

Hòa thượng xuất gia khi đã chín chắn, lại vốn có căn khí của bậc xuất trần, hình nghi đĩnh đạc, cộng với trước đó được thọ ân giáo dưỡng tại chùa Tế Nam và Phú Sơn, nên sau 3 năm tu học tại Phật học viện Phổ Thiên - Đà Nẵng, được Đức Tăng cang trực tiếp chỉ dạy, ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa-di tại Giới đàn chùa Báo Quốc năm 1953; năm 1956, thọ giới Tỳ-kheo tại Giới đàn chùa Ấn Quang do Hòa thượng Thích Thiện Hòa làm Đàn đầu Hòa thượng.

Năm 1956, ngài được Bổn sư phó thác vào Tam Kỳ để thực hiện việc trùng kiến chùa Tịnh Độ cùng với chư huynh đệ. Tại đây, ngài chính thức được ngài Trị sự trưởng Giáo hội Tăng-già Trung phần tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cấp Giấy chứng nhận là Tăng chúng chùa Tịnh Độ. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng được Chi hội Phật học Tam Kỳ mời về làm giám tự Hội quán Phật học Tam Kỳ (do bà Trần Thị Lắm - vợ ông quan người Pháp cúng dường, nay là chùa Hòa An). Năm 1960, Hòa thượng chính thức đảm nhận trụ trì Hội quán, tức chùa Hòa An.

Hòa thượng Thích Từ Ý với chúng đệ tử xuất gia tại tổ đình Hòa An
Hòa thượng Thích Từ Ý với chúng đệ tử xuất gia tại tổ đình Hòa An

Thời gian này, nhân duyên tụ hội, ngài liên tiếp kiến lập, trùng tu, hỗ trợ cho hàng loạt ngôi chùa, đáng kể nhất là khai sơn chùa Hữu Lâm (1958), chùa Từ Quang (Tam Kỳ, 1963). Năm 1962, tỉnh Quảng Tín được thành lập, ngài được cung thỉnh làm Trưởng ban vận động tài chính tỉnh; ngài xin phần đất tại thôn Mỹ Thạch, xã Kỳ Hương làm trụ sở Giáo hội. Lễ đặt đá xây dựng vào ngày 17-11-1963, do Hòa thượng Thích Đôn Hậu chứng minh. Đến năm 1965, trụ sở Giáo hội hoàn thành, được Hòa thượng Thích Trí Thủ đặt tên là chùa Đạo Nguyên (Tân Thạnh, Tam Kỳ). Cũng năm này, Viện Hóa đạo GHPGVN Thống nhất bổ nhiệm ngài làm trụ trì chùa Đạo Nguyên.

Năm 1972, được các Phật tử hiến cúng đất tại thôn Kỳ Hưng, quận Lý Tín cũ, Hòa thượng khai sơn chùa Hưng Quang (nay thuộc xã Tam Xuân). Cũng năm này, Hòa thượng đặt tượng Phật Thích Ca tại Thiên Long Thạch Động (chùa Hang, xã Kỳ Liên, nay là xã Tam Nghĩa) và dựng tượng Quán Thế Âm Bồ-tát tại đập Bà Quận (trước am Từ Long của cố Hòa thượng Thích Từ Hội).

Năm 1973, được Phật tử Lý Túy và Lê Thị Ký cúng lô đất gần Nhà đèn, Hòa thượng mua thêm 287m² cận đó xây dựng chùa Diệu Quang, nay thuộc phường Hòa Hương. Cũng năm này, được Phật tử Hồ Đạt, Nguyễn Ích cúng đất, Hòa thượng khai sơn chùa Từ Quang tại xã Kỳ Trung, nay là xã Tam Tiến.

Riêng đối với chùa Hòa An, Hòa thượng có rất nhiều kỷ niệm và nhiều sự gắn bó. Năm 1961, ngài trùng tu chùa Hòa An lần 2, đặt làm trụ sở Chi hội An Nam Phật học Tam Kỳ. Năm 1963, ngài cùng với đồng bào Phật tử tổ chức tuyệt thực ba ngày tại chùa Hòa An để đòi thực thi chính sách bình đẳng tôn giáo trước chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Năm 1968, Hòa thượng trùng tu chùa Hòa An lần 3, xây dựng các công trình phụ để làm cơ sở tài chính cho Giáo hội tỉnh như trường Bồ Đề và cơ sở sản xuất hương đèn… Các lợi tức của cơ sở này do Giáo hội tỉnh quản lý; còn chùa thì tự túc kinh tế bằng trồng ruộng lúa, hoa màu trên đất Phật tử hiến cúng.

Hòa thượng Thích Từ Ý luôn xem trách vụ là việc Tăng sai, phụng sự là bổn phận nhưng vẫn không quên lý tưởng giải thoát của người xuất gia (ảnh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thăm trường hạ tổ đình Tịnh Độ, năm 1983)
Hòa thượng Thích Từ Ý luôn xem trách vụ là việc Tăng sai, phụng sự là bổn phận nhưng vẫn không quên lý tưởng giải thoát của người xuất gia (ảnh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thăm trường hạ tổ đình Tịnh Độ, năm 1983)

Song song với Phật sự kiến tạo, trùng tu chùa viện, Hòa thượng còn được cung thỉnh làm Tôn chứng Tăng-già tại Giới đàn Phước Lâm năm 1964 (Giới đàn đầu tiên của GHPGVN Thống nhất Quảng Nam, tổ chức ngày 8-2-1964). Năm 1970, Giới đàn Vĩnh Gia tổ chức tại Đà Nẵng, Hòa thượng được mời vào Ban Tổ chức, góp phần cho sự thành tựu giới đàn.

Sau năm 1975, với trách vụ Chánh Đại diện Thị hội Phật giáo Tam Kỳ, ngài nỗ lực vực dậy sinh hoạt Tăng-già. Ngoài việc tổ chức an cư kiết hạ tập trung (như đã nói ở trên), năm 1985, Hòa thượng được cung thỉnh làm Giáo thọ A-xà-lê tại giới đàn chùa Long Tuyền - Hội An. Năm 1990, ngài đứng ra tổ chức giới đàn phương trượng truyền giới Sa-di, Thập thiện, Bồ-tát giới tại chùa Hòa An; cung thỉnh Hòa thượng Thích Thiện Duyên làm Đàn đầu Hòa thượng, ngài đảm nhận Giáo thọ A-xà-lê.

Dầu vậy, nhân duyên tạo tự, hộ tự vẫn không ngừng tìm đến với Hòa thượng. Năm 1981, theo thỉnh nguyện của đệ tử Nguyên Trọng, Nguyên Hòa, Nguyên Lễ, Như Thông..., Hòa thượng khai sơn xây dựng chùa Phước Quang tại Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Với uy đức của mình, Hòa thượng được nhiều nơi thỉnh mời chứng minh lễ đặt đá xây dựng chùa như: chùa Phước Hiệp (Tiên Phước), Phước An (Thăng Bình), Khương An (Núi Thành), Đông An (Hiệp Đức), Hòa Nam (Tam Kỳ), Hiệp Phú (Núi Thành)… Ngoài ra, Hòa thượng còn vận động tín đồ cúng dường tài vật để sửa sang, tu bổ lại các chùa như: chùa Trân Bửu (xưa là chùa Khánh Thọ), chùa Dương Đàn, chùa Dương Lâm...; hướng dẫn tín đồ Phật tử chuyển miếu thành chùa Tiên Mỹ bây giờ…

Cuộc đời hành đạo của Hòa thượng gắn liền với những thịnh suy của thời cuộc, với Phật giáo nước nhà. Lặng lẽ mà bền bỉ, Hòa thượng xem trách vụ là việc Tăng sai, phụng sự là bổn phận, nhưng trước sau như một, vẫn không quên lý tưởng giải thoát của mình. Hòa thượng đã khuyến hóa không thể đếm được số người nương nhờ về cửa Phật. Ngài độ cho hàng đệ tử xuất gia trên 50 vị, nhiều vị đã và đang tiếp nối con đường hoằng pháp của Hòa thượng Tôn sư.

Những ngày cuối đời của Hòa thượng là những ngày chứa chan tình đạo. Trong “bóng xế chiều hôm”, ngài gác lại tất cả công việc, chỉ chuyên tâm tịnh dưỡng, niệm Phật, chuẩn bị hành trang về với Phật. Ngài sắp xếp thời gian thăm các đệ tử ở xa như TP.HCM, Vũng Tàu, Đà Nẵng,… sách tấn và chuyển giao hết công việc cho đệ tử.

Ngày 20-6-Canh Ngọ (1990), Hòa thượng họp chúng đệ tử, giao nhiệm vụ trụ trì chùa Hòa An cho đệ tử lớn là cố Hòa thượng Thích Thiện Tường. Ngày 1-7-Canh Ngọ (1990), ngài thăm đạo tràng an cư Tịnh Độ và quý Hòa thượng Thiện Duyên, Hòa thượng Chơn Ngộ, Hòa thượng Viên Mãn.

Đêm 20-7-Canh Ngọ, Hòa thượng cho gọi chúng đệ tử vào phòng rồi bảo mời Hòa thượng Thích Thiện Duyên vào thăm lần cuối. Đến 1 giờ 25 phút ngày 21-7-Canh Ngọ, Hòa thượng hỏi giờ rồi chắp tay chào vĩnh biệt. Hóa duyên đã mãn, việc cần làm đã làm, Hòa thượng phải trở về nơi cần trở về, nhẹ như gió thoảng giữa bầu không…

Hòa thượng Thích Từ Ý thế danh Trần Văn Chí, pháp húy Tâm Niệm, tự Từ Ý, hiệu Chơn Thiện, thuộc pháp phái Liễu Quán, thiền phái Lâm Tế, đời thứ 43.

Ngài sinh ngày 21-1-1918 tại làng Tịch Tây, tổng Đức Hòa, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam (nay là thôn Trà Tây, xã Tam Mỹ, TP.Đà Nẵng), trong một gia đình gồm sáu anh chị em (Hòa thượng là con út) có truyền thống Nho gia và thâm tín Phật giáo. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Thi, pháp danh Thanh Y; thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Thời, pháp danh Tịnh Vận.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Chùa Bửu Quang, dân gian thường gọi là chùa Gia Lào, tọa lạc tại núi Chứa Chan, xã Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai hiện nay - Ảnh: DKVN

Ban Quản trị tổ đình Thiên Thai kêu cứu về tình trạng mất trật tự tại chùa Bửu Quang (Gia Lào, Đồng Nai)

GNO - Báo Giác Ngộ nhận được đơn kêu cứu của Ban Thừa kế - Ban Quản trị tổ đình Thiên Thai do Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Xuân, Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Trưởng ban Thừa kế Thiên Thai Thiền Giáo tông ký, liên quan tới chùa Bửu Quang (ấp Trung Sơn, xã Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai).

Thông tin hàng ngày