Kinh Viên Giác & Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh

Kinh Viên Giác & Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh

NSGN - Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là tác phẩm lớn cuối cùng của Ngô Thì Nhậm, là kết tinh chín muồi cả về nội dung tư tưởng lẫn bút pháp nghệ thuật của danh sĩ này.

Chúng ta biết rằng, Phật giáo là một trong những hệ tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại, xuất hiện cách đây hơn 2.500 năm ở Ấn Độ. Hệ tư tưởng này có sức ảnh hưởng rất lớn đến nhiều khía cạnh của đời sống nhân loại, nhất là những dân tộc nằm trong sự ảnh hưởng của hai nền văn minh lớn: Ấn Độ và Trung Quốc, trong đó có Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam vốn từ xưa đã có truyền thống hòa hiếu và rộng mở, nên dễ dàng tiếp nhận những tinh hoa tư tưởng của các dân tộc khác. Từ khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, thì dân tộc ta đã tiếp thu, tinh lọc và dung hòa tư tưởng Phật giáo với những nét văn hóa truyền thống tâm linh bản địa để tạo nên một nền văn hóa đặc sắc, độc đáo giàu bản sắc dân tộc, khu biệt với nền văn hóa của những dân tộc khác, kể cả quốc gia dân tộc sản sinh ra hệ tư tưởng này là Ấn Độ và những quốc gia dân tộc chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo sâu sắc như Trung Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan… Cho nên việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách nghiêm túc ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn học, để hiểu sâu sắc hơn nữa văn hóa truyền thống của dân tộc ta là điều vô cùng cần thiết; cụ thể là ảnh hưởng bố cục của kinh Viên giác trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh - một trước tác nổi tiếng của danh sĩ Ngô Thì Nhậm và những pháp hữu, đệ tử vào cuối thế kỷ XVIII. Bởi vì, có thể nói rằng Ngô Thì Nhậm là một tác gia xuất sắc tiêu biểu cho cả một nền văn học Việt Nam trong thời kỳ này.

Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là tác phẩm lớn cuối cùng của Ngô Thì Nhậm, là kết tinh chín muồi cả về nội dung tư tưởng lẫn bút pháp nghệ thuật của danh sĩ này. Nói như kiểu nhà Thiền, thì tác phẩm này giống như “bài kệ truyền tâm ấn” của các thiền sư cho các đệ tử lúc sắp viên tịch. Bởi vì, tất cả những gì tinh túy nhất cũng như tâm huyết của cả một đời tác giả đều gửi gắm hết vào đây. Không những thế, tác phẩm này còn là giải pháp tâm huyết nhằm phục hưng đất nước trong thời loạn lạc của tác giả và các pháp hữu cuối thế kỷ XVIII.  

Khi viết Trúc Lâm đại chân Viên giác thanh tự Bảo Chân đạo nhân Phan Huy Ích có nhận xét khái quát về tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh: “Ông anh vợ tôi là Hy Doãn Công, quan Thị trung đại học sĩ, học thức cao rộng, hơn hẳn người thường. Kinh nghiệm đúc kết càng uyên thâm, sự nghiệp càng thêm tinh túy, Tam giáo cửu lưu, Bách gia chư tử không gì là không thâu tóm được đầy đủ, hợp với tấm lòng rộng lớn, đủ để điều khiển được muôn vật, nắm vững được Tam huyền. Bộ sách Hai mươi bốn thanh âm của ông soạn ra, đã đem hết những chỗ mà lời lẽ của nhà Phật còn lờ mờ huyền bí, chia cắt thành từng đoạn, thâu tóm, tập hợp thành đầu mối theo thứ tự từng tiết, cho nên những gì là tinh túy, uẩn súc đã được mở rộng ra, rồi đem công hành trên bản in để tỏ rõ cho rừng thiền được biết”(1). Cộng với đại ý nội dung lá thư của Ngô Thì Đạo gửi cho Ngô Thì Nhậm chép trong Ngô gia văn phái rằng: “Cháu nhường chỗ ở làm Trúc Lâm thiền viện để thờ Tam tổ, viết kinh Viên giác mới gồm 24 thanh, dạy học trò, xưng pháp hiệu là Đệ tứ tông…”(2). Như vậy, liên kết hai dữ liệu trên cho ta thấy rằng Ngô Thì Nhậm viết “kinh Viên giác mới” dựa trên cơ sở kinh Viên giác, phân thành từng đoạn, giảng giải chi tiết những nội dung tư tưởng tinh túy, uẩn súc để cho người đọc dễ tiếp nhận và thực hành.

Nếu xem số mười hai chương của kinh Viên giác là 12 tháng của một năm và số hai mươi bốn thanh của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh là 24 tiết (mỗi tháng có 2 tiết) thì cũng vừa đúng một năm.

Hơn nữa, mười hai chương của kinh Viên giác tương thích với Thập nhị Địa chi (tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi). Mà Thập nhị Địa chi phối hợp với Thập Thiên can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) và Bát quái (càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài) lập thành biểu đồ hình tròn Nhị thập tứ thanh phối khí ứng sơn chi đồ (Biểu đồ hai mươi bốn thanh phối với các tiết trong năm). Hai mươi bốn thanh trong phần chính văn của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được xếp thep thứ tự thuận chiều kim đồng hồ và có mối liên kết chặt chẽ.

Hai mươi bốn thanh trong Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh ứng với hai mươi bốn tiết trong vòng tuần hoàn của một năm, được làm rõ trên Nhị thập tứ phối khí ứng sơn chi đồ và số mười hai chương của kinh Viên giác cũng vừa ứng với mười hai tháng của một năm. Phải chăng, số lượng chương của hai tác phẩm này có mối liên hệ mật thiết với nhau?

Nếu bốn chương đầu (chiếm 1/3 của 12 chương) trong kinh Viên giác, là bốn chương căn bản của kinh và chương Văn Thù (chương 1) là trọng yếu trong bốn chương thì ở Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, tám thanh đầu (chiếm 1/3 của 24 thanh) là tám thanh căn bản của tác phẩm và chương Không thanh (chương 1) là trọng yếu của tám chương. Bảy chương kế tiếp của kinh Viên giác (từ chương Di Lặc - chương Viên giác) cũng như mười bốn thanh kế tiếp của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh (Từ Định thanh - Hưởng thanh) nhằm quyết trạch những nghi lầm và mở rộng phương tiện cho phù hợp với tất cả các đối tượng. Chương Hiền Thủ (chương cuối) của kinh Viên giác và hai thanh kết thúc tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh đều làm nhiệm vụ của phần lưu thông, lưu hành không để tác phẩm mai một, gián đoạn.

Tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm bắt đầu bằng chương Không thanh. Trong khi đó, trước khi nói kinh Viên giác, Đức Phật và chúng đệ tử đều an trụ trong chánh định, thể nhập vào tự tính thanh tịnh, không còn vọng tâm quấy nhiễu thì mới có thể nói và nghe về cảnh giới Viên giác. Phải chăng, tác giả của Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh muốn bắt đầu từ cảnh giới Chân không (Không thanh) đi đến cái Diệu hữu (hai mươi ba thanh còn lại) để triển khai tông chỉ của mình. Đây là con đường đi từ thể đến dụng, từ tính ra tướng. Và Đại trí Văn Thù là vị Bồ-tát đầu tiên phát khởi trong kinh Viên giác, cũng tức là tiêu biểu cho căn bản trí trong Phật giáo. Như vậy, đại diện cho cảnh giới Phật trí tròn đầy, viên mãn, thường biểu thị bằng cái vòng tròn giống như số 0, thì Văn Thù Bồ-tát chính là hình tượng đắc địa. Cái biểu tượng thể tính Viên giác tròn đầy tương thích với Không thanh của Hải Lượng thiền sư không thể dùng ngôn ngữ giảng biện, không thể dùng trí phân biệt đo lường, chỉ có thể tạm mượn lời bài kệ thứ 10, nói về cảnh giới giác ngộ của Phổ Minh thiền sư trong Thập mục ngưu đồ của Thiền tông để gợi: 

       “人牛不見杳無踪, 

    明月光含萬象空.

    若問其中端的意,

    野花方草自叢叢”.(3) 

Phiên âm:

Nhân ngưu bất kiến yểm vô tông

Minh nguyệt quang hàm vạn tượng không

Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý

Dã hoa phương thảo tự tùng tùng.

 Dịch thơ:

Chẳng thấy người, trâu dấu mịt mùng,

Ánh trăng trong suốt thảy đều không.

Muốn tìm ý chính bên trong ấy,

Cỏ dại hoa thơm vẫn biếc nồng. 

Người chăn và con trâu đều vắng bặt, ánh trăng hòa cùng vạn tượng không còn phân biệt, tức là nhân, ngã đều xả, tâm, pháp đều quên. Đó cũng chính là lúc ánh sáng trí huệ tự tính chiếu soi vô cùng, hương thơm lan tỏa khắp muôn phương, không ngằn mé, không biên giới, cũng không thể dùng tư duy lô-gic hiểu được, mà chính tự bản thân phải thể nhập vào cảnh giới đó.  

Trong Thanh dẫn, mở đầu chương Không thanh, Ngô Thì Hoàng cho rằng: "古今行識盡在空聲中。可得而聞,不可得而尋。夫是之謂空。 空也者,天上之载,无聲之聲也".(4) (Cổ kinh hành thức tận tại không thanh trung. Khả đắc nhi văn, bất khả đắc nhi tầm. Phù thị chi vị không. Không dã giả, thiên thượng chi tái, vô thanh chi thanh dã). Nghĩa là: Xưa nay hành động và nhận thức đều nằm trong tiếng không. Tiếng có thể nghe, nhưng tìm không được vì vậy gọi là không. Không ở đây là sự vần chuyển ở trên trời, là tiếng “không có tiếng”.

Lý do mà Hải Lượng thiền sư viết nên hai mươi bốn thanh, giải thích cặn kẽ những vấn đề mà đệ tử chưa thông, được Hải Hòa Tăng làm rõ: “Xưa kia, Bản Sư nhón tay cầm hoa giơ lên, thì Ca Diếp mỉm cười, đó là thần cơ đã lĩnh hội được ý chỉ, không đợi phải truyền thụ bằng lời. Nay chân không chẳng còn chướng ngại, Phật thuyết pháp với đồ đệ phải lộ ra chút thần sắc, phát ra thành lời, đó là vì chúng nhân công hành chưa sâu, ma chướng còn nặng, vừa mới nghe thầy nói mà đến nỗi quay lưng vào án thư. Nếu không cố sức nói, thì làm sao mà lĩnh hội được? Cho nên đặt ra vấn đáp để biện minh nghi hoặc với chúng nhân, đó cũng là một điều khổ tâm của đức từ bi”(5).

Phật giáo Thiền tông xưa nay đều theo truyền thống “Trực chỉ nhân tâm” (chỉ thẳng tâm ngươi) và “Bất lập văn tự” (không lập văn tự), bởi vì ngôn ngữ là pháp hữu vi, không thể diễn tả chân lý một cách trọn vẹn được. Giữa ngôn ngữ và chân lý luôn tồn tại một khoảng cách nhất định, khoảng cách này chỉ có thể rút ngắn đến một giới hạn gần nhất, nhưng không bao giờ bị triệt tiêu. Cho nên, mạng mạch Phật giáo Thiền tông sở dĩ được truyền thừa mãi mãi không bao giờ dứt là nhờ vào cách thức “dĩ tâm ấn tâm” (lấy tâm truyền tâm) mà không dùng văn tự, bởi vì “hữu hình tất hữu hoại” (phàm cái gì có hình tướng ắt phải bị hoại diệt). Nhưng Hải Lượng thiền sư vì muốn biện minh những nghi hoặc, mê lầm phổ biến về Phật giáo trong thời đại ông sống, nên bất đắc dĩ phải dùng ngôn ngữ nghệ thuật làm phương tiện để giảng giải.

Chỉ với mười hai chương, tổng cộng hơn mười ba ngàn chữ của kinh Viên giác đã dung chứa toàn bộ tinh yếu nghĩa lý uyên áo của một trong những hệ tư tưởng vĩ đại trên thế giới. Những phạm trù cơ bản trong triết lý Phật giáo nói chung, kinh Viên giác nói riêng như: Phật tính, bản thể, bình đẳng, lý, dục, tham ái, luân hồi, tiền kiếp, tịch diệt, phá chấp, sinh diệt, giải thoát… được Hải Lượng thiền sư Ngô Thì Nhậm, không những tiếp thu, thể nghiệm mà còn hình tượng hóa chúng thành một công trình nghệ thuật ngôn từ độc đáo: Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh.

Ngô Thì Nhậm sáng tạo ra “kinh Viên giác mới” trên cơ sở vận dụng một cách nhuần nhuyễn và khéo léo những trải nghiệm bản thân về Phật, về Thiền cộng với tri thức Nho học vốn có của ông vào việc giảng giải một cách dễ hiểu những phạm trù uyên áo của nhà Phật theo xu hướng thực tiễn hóa, đơn giản hóa một cách rạch ròi, khúc chiết, làm cho người học dễ dàng nắm bắt và áp dụng vào việc xác định đường hướng và tông chỉ tu tập. 

Hai mươi bốn chương của phần chính văn tác phẩm là một công trình nghệ thuật ngôn từ tuyệt diệu, bút pháp đạt tới mức tinh tế, mỗi câu mỗi chữ đều có hàm ý sâu sắc, nhằm cảnh tỉnh người nghe, dẫn dắt người nghe quay về với chân tâm thanh tịnh sáng suốt, không bị ngoại cảnh mê hoặc, trói buộc.

Giá trị nội dung tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh còn thể hiện ở chỗ, toàn bộ tác phẩm là một lộ trình tu tâm dưỡng tính hoàn chỉnh và xuyên suốt không chỉ phù hợp với thời đại ông sống, mà còn thích hợp với cả con người đương đại. Tám chương đầu tiên, tác giả chú trọng vào việc giác ngộ chân tâm thanh tịnh của mỗi người, tự tính của vạn pháp, bản chất của vạn vật (lý) để làm kim chỉ nam cho việc thanh lọc nội tâm, loại bỏ tạp niệm, khai thông căn bản trí tuệ (Bát-nhã). Tám chương giữa là sự hòa quang đồng trần, thiên về tinh thần nhập thế, làm lợi ích cho chúng sinh theo kiểu Bồ-tát hạnh, để phát huy trí tuệ và nâng cao đạo hạnh trong thử thách chướng ngại. Và tám chương kết chính là sự kiểm nghiệm lại toàn bộ sự trải nghiệm trong quá trình tu tập ở trên và xác định rõ ràng con đường đi tới tự do tự tại, giác ngộ và giải thoát. 

 Chú thích

(1) Viện Khoa học Xã hội Việt Nam , Lâm Giang chủ biên (2006), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 5. Nxb. Khoa Học Xã Hội, tr.37-38.

(2)  Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Mai Quốc Liên chủ biên (2002), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 3, NXB. Văn Học, tr.134.

(3) Quảng Trí thiền sư (1991), Thập mục ngưu đồ tụng, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, Trần Đình Sơn dịch và chú, tr.114.

(4)  Viện Khoa học Xã hội Việt Nam , Lâm Giang (chủ biên), (2006), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 5, NXB. Khoa Học Xã Hội, tr.111.

 (5)  Viện Khoa học Xã hội Việt Nam , Lâm Giang (chủ biên), sđd, tr. 131-132.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày