Quốc học Đại sư -giáo sư Thiền giả Nam Hoài Cẩn

Quốc học Đại sư -giáo sư Thiền giả Nam Hoài Cẩn
Nam Hoài Cẩn- một thi nhân, một Đại sư Quốc học TQ-Đài Loan, người tích cực truyền bá văn hóa truyền thống TQ, những tác phẩm của ông xuất bản là do những lần đăng đàn diễn giảng khắp Hoa Lục và Đài Loan, nội dung các trước tác của ông đều có liên quan đến tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo.

Ông sinh năm 1918, tại thành phố Liễu Thị, tỉnh Chiết Giang; 1945, đến Tây Tạng khảo sát, tham quan, sau về núi Nga Mi nhập thất 2 năm, là giảng viên của Đại Học Vân Nam, Đại Học Tứ Xuyên thời bấy giờ. 1947, về lại quê hương, không lâu sau đó, ẩn cư tại Hàng Châu, sau đến chùa Thiên Trì, Lô Sơn, Giang Tây tĩnh tu.

1949, đến Đài Loan, là giảng viên của các Đại học tại Đài Loan Lúc bấy giờ. 1976, ông lại nhập thất ba năm tại Cao Hùng- Đài Loan. 1985 đến bang Virginia-Mỹ, thành lập Học Viện Đông Tây. 1988 đến cư trú lại Hồng Kông. 1993, được sự thỉnh mời của trưởng lão Diệu Trạm đến chùa Nam Phổ Đà-Thành phố Hạ Môn chủ trì Phật sự “ Thiền thất-nghiên cứu Thiền tu thực tiển và sinh mệnh khoa học ”. Các năm gần đây, ông về cư ngụ, diễn giảng, trước tác tại Thượng Hải.

Tại các nhà sách lớn của Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, sách của Nam Hoài Cẩn được đặc biệt trưng bày riêng, với hơn 33 đầu sách nghiên cứu về văn hóa Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Nam Hoài Cẩn được giới học giả Trung Quốc  tuyên xưng là Đại sư Quốc học.

Riêng đối với Phật giáo, ông là đại cư sĩ, là Đại sư thiền tông, được chư tôn Thiền Đức cung kính, thân cận và học hỏi. Tuy là Phật tử, nhưng ông vẫn nhập thất tọa thiền, khai huệ, viết nên những tuyệt tác cống hiến cho nền văn hóa học thuật Trung Quốc . (Các tác phẩm ông viết về Phật giáo như: “Lược Giảng Kinh Viên Giác”, “Định Huệ Sơ Tu”, “Đại Nghĩa Kinh Lăng Nghiêm”, “Đại Nghĩa Kinh Lăng Già”, “Kinh Kim Cang Thuyết Những Gì”,“Lược Sử Phát Triển Phật Giáo Trung Quốc ”, “Thiền Và Nghệ Thuật Quản Lý” v..vv.. và nhiều tác phẩm khác mà các tác giả TQ viết về ông)

Tụng kinh thí thực là hành Bồ Tát đạo,hóa độ chúng sanh

Tôi học Phật mấy chục năm nay, các học trò nơi này đều biết, mỗi tối tôi đều thí thực, tụng kinh, cầu chư Phật phù hộ cho chúng sanh luân lạc trong đường ngạ quỷ, súc sanh, sớm được thoát biển khổ luân hồi.

Thế hệ già như chúng tôi, từ nhỏ đã sống trong binh đao khói lửa chiến tranh, hình như chẳng ngày nào được an lành. Còn nhớ năm tôi rời quê nhà, chớp mắt đã mấy chục năm, không có cách nào để liên lạc với thân nhân, cha mẹ mất còn cũng không biết. Gần hai chục năm không có tin tức gì, nên có câu thơ ghi rằng: “Lịch kiếp cơ năng toàn cốt nhục, đối nhân bất cảm luận vong tồn”, trong lòng thật đau xót. Người khác hỏi cha mẹ tôi có được khỏe không? Thực không dám trả lời, sợ nói một hồi rồi đau đớn, buồn phiền.

Mẹ tôi quy y theo Phật, nhưng không hiểu lắm về Phật pháp. Khi còn nhỏ, tôi có lần hỏi bà: “Mẹ, đôi mắt của Bồ Tát sao cứ nửa nhắm nửa mở vậy? tại sao ngài không mở mắt to lên?” câu hỏi như thế không dễ đối với bà, nhưng bà đáp tỉnh queo: “Người trên cõi này quá là độc ác, Bồ Tát chỉ còn cách nửa nhắm nửa mở, như vậy mới là tốt, nếu như mở mắt rõ nhìn cuộc đời, thế sự loạn lạc thế này, có mà giận chết à”. Tôi nghe xong, hả, thì ra là vậy sao! cũng hay quá chớ. Những chuyện trong quá khứ như vậy, chỉ trong chớp mắt, đã là hồi ức trẻ thơ. Đúng là, nghĩ về cha mẹ, mình có già cách mấy cũng thấy mình như trẻ thơ.

Bây giờ, tôi chỉ biết đền ơn cha mẹ, bằng cách mỗi ngày hai thời tụng kinh, công việc có bận thế nào, cũng phải tụng kinh Bát Nhã. Nếu như không tụng, thì cứ trằn trọc, không chợp mắt được. không thí thực, tôi cũng không ngủ được. Có khi mệt quá, cần nghỉ ngơi, thì gọi các học trò thí thực dùm. Nhưng khi tỉnh dậy, sợ người khác cúng cơm nước không đầy đủ, các bạn bè cô hồn ăn không được, lo sợ họ thiệt thòi, liền phải tụng kinh thí thực lại.

Bạn bè đồng nghiệp qua đời, tôi cũng vì họ mà thí thực đến 49 ngày, mỗi năm tiết Trung Nguyên, tiết cô hồn, tôi đều cúng thí thực. Dù sao đi nữa, ngày nào tôi cũng đãi tiệc mời khác, thêm một người là thêm một đôi đủa, cái chén, cũng không ảnh hưởng gì. Song, tôi không thích đề xướng việc tôi làm, nhưng học trò ở đây, tôi đều hướng dẫn họ cúng kiến nghiêm túc.

Cái gì là tâm đại từ đại bi? Chỉ có vài hạt cơm, vài chung nước, vài phút đồng hồ thí thực cho cô hồn quỷ thần, chúng ta còn giải đải, huống chi hầu hạ cơm nước cho người mỗi ngày, là chuyện không thể xãy ra. Một cái tâm thông cảm đồng tình với người mất cũng không có, thì sao gọi là tu tập? Tôi nói như vậy, không phải mê tín mà là chánh tín, nói khác, đạo của quỷ thần, không phải là chuyện hư không.

Nói chung, tư tưởng luân hồi dung chứa quan niệm đạo đức trân quý của Phật giáo, thà tin là có, chứ không thể không tin. Nhưng tin mà không mê, khổng tử cũng có câu: “Kính nhi viễn chi” viễn chi không có nghĩa là chúng ta không quan tâm mà cần phải giữ khoảng cách cung kính. Quỷ thần không hại chúng ta, quỷ thần nếu hại chúng ta, chúng ta nên tự kiểm điểm, xem mình có làm gì thiếu đức hay không? quỷ thần trên đời không sợ, đáng sợ nhất là tâm người! người là quỷ sống, quỷ là người chết, đạo lý này, chúng ta phải hiểu rõ. Kinh điển nhà Phật, luôn dạy mình quy củ làm người, không những hiếu kính cha mẹ ruột, mà còn phải hiếu kính cha mẹ khắp thiên hạ, nhìn tất cả chúng sanh như chính mình, như anh chị em của mình. Tống nho phản đối Phật giáo, chỉ trích Phật giáo không màng phụ mẫu, không màng quân thần, thế thì quá ngộ nhận rồi. Phật pháp chân chính mới là chí hiếu. Xuất gia, vì hiểu rõ cái thống khổ của mình và người, nên dụng công tu tập, tu đạo thành đạo, khiến lục thân quyến thuộc đạt được lợi ích, còn ảnh hưởng đến cha mẹ bảy đời và thân hữu, hành bồ tát đạo, cứu tế pháp giới chúng sanh. Đó mới là phát huy đại hiếu của Phật giáo, thế thì còn gì để chúng ta phải tranh luận hoặc hoài nghi?

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày