Tôi đã đến Ấn Độ, đã lần theo hành trình xa xưa của Ngài,… và chợt bật khóc bởi quá thương Ngài - một người chịu khổ…
Ấn Độ ngài nay, xét trên nhiều khía cạnh, dường như không khác mấy so với Ấn Độ thời Đức Phật. Vẫn cái lạnh thấu xương, vẫn cái nóng nung người, vẫn những nhà tu và vẫn những bậc “đế vương” cùng những con người “hạ tiện”, nghèo khổ, cùng quẫn, không thể ngóc đầu lên được.
Một buổi chiều ở Khổ Hạnh Lâm, ngôi một mình trong hang đá nhỏ, nơi xưa kia Bồ tát từng ẩn tu khổ hạnh, tôi không quán hơi thở, chỉ lắng nghe xúc cảm của mình và chiêm ngưỡng dung nhan tiều tụy pho tượng khổ hạnh. Trong hang tối, dưới ngọn nến vàng vọt, hình anh Ngài hiện lên uy nghi và khả kính. Gương mặt thật gầy với đôi mắt hõm sâu, lồng ngực trơ những đốt xương sườn, hai cánh tay khẳng khiu đặt lên đôi chân gầy vững chãi.
Trở về Bồ Đề Đạo Tràng khi đêm xuống, tôi yên lặng ngồi xuống bên gốc bồ đề xưa kia Bồ tát thành đạo. Đêm không yên ắng lắm bởi những tiếng tụng niệm, những bước kinh hành của nhiều Tăng Ni, Phật tử. Tôi thử tưởng tượng rằng mình đang ngồi bên Bồ tát - chỉ có tôi với Bồ tát - để thử cảm nghiệm những xúc cảm của Ngài giữa chốn núi rừng hoang vu vắng lạnh mấy nghìn năm về trước. Nhưng than ôi, tôi không thể ngồi lâu được vì… muỗi. Muỗi xứ Ấn có vẻ rất to khỏe, mỗi cú chích là một cú giật nẩy người. Tôi nhìn quanh, thấy một vài người giăng chiếc mùng thiền - nhiều người ngồi như thế suốt đêm - lòng không khỏi áy náy, lại thương cho Ngài quá. Một tấm thân gầy ốm giữa đoàn quân muỗi, thật khủng khiếp, nhưng hẳn Bồ tat chẳng bao giờ bị quấy nhiễu bởi những điều nhỏ nhặt ấy như tôi - hẳn nhiên!
Đi ngược về nơi Phật Niết bàn. Trong ngôi điện là pho tượng Phật nằm. Pho tượng xù xì nhưng thật có hồn. Nhiều người đã bật khóc khi quỳ xuống bên ngài. Dường như Ngài vẫn còn đó, mấy nghìn năm rồi, và mấy nghìn năm nữa! Tôi ứa nước mắt vì biết mình ra đời quá muộn. Nhưng nhìn dáng nằm đó, cứ có cảm giác rằng Ngài mới tịch đâu hôm qua thôi. Nghĩa là Ngài vẫn còn đó, bên con, và bên tất cả mọi người.
… Lại một chiều ở Vệ Xá Ly, nơi xưa kia Đức Phật xác quyết ngày Ngài thị tịch. Những nền thiền thất vẫn còn đó mà Ngài đã đi rồi. Có lẽ lần cuối cùng ở một ngọn đồi nhỏ nào đó, trên đường về Câu Thi Na, Đức Phật đã quay lại nhìn vương thành Vệ Xá Ly lần cuối. Ánh nhìn điềm tĩnh, bao quát, như cái nhìn của voi chúa bao dung đối với bầy đàn. Đoạn đường từ Vệ Xá Ly đến Câu Thi Na khoảng 300 cây số. Lúc bấy giờ Đức Phật đã thọ bệnh, căn bệnh hẳn đã khiến cho thân thể - mà Ngài thường gọi là cỗ xe cũ 80 năm ấy - tiều tụy hẳn, song Ngài vẫn bước đi an nhiên, tự tại. Trên đoạn đường dài này, có thể dễ dàng hiểu được Ngài đa phải nhiều hôm nhịn đói do không có xóm làng…
Theo dấu chân Phật, kẻ hành hương không khỏi chạnh lòng, phần thì thương mình, phần thì thương Phật: thương mình phước bạc, thương Phật chịu khổ. May mà đoạn cuối hành trình, đến Lâm Tỳ Ni, kẻ hành hương như vẫn còn nghe hương thơm, chim ca, hoa nở. Dấu chân người vẫn còn đó, in đậm trên phiến đá, như minh chứng một con người thật đã từng xuất hiện, đã từng chịu khổ để đem lại sự an lạc cho tất cả chúng sanh…
Thiện Hưng