TT-Huế: Lễ húy nhật Đại lão HT.Thích Đôn Hậu

GNO - Sáng 6-5 (21-3-Mậu Tuất), tại chùa Thiên Mụ (TP.Huế), HT.Thích Trí Tựu cùng chư Tăng trang nghiêm tổ chức lễ húy nhật HT.Thích Đôn Hậu (1905 - 1992).


Dâng hương tưởng niệm và cử hành buổi lễ có chư tôn đức Giáo phẩm Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh TT-Huế; chư tôn đức Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh TT-Huế; chư Tăng Ni các tự viện, Phật tử các giới trong ngoài tỉnh.

HT Don Hau.jpg
Chân dung Đại lão HT.Thích Đôn Hậu

Theo tiểu sử, Hòa thượng pháp danh Trừng Nguyên, hiệu Đôn Hậu, thuộc đời thứ 8 phái thiền Liễu Quán, thế danh là Diệp Trương Thuần. Ngài sinh ngày 13 tháng Giêng năm Ất Tỵ (16-2-1905) tại làng Xuân An, tổng An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, nhưng lại quy ngưỡng Phật giáo. Thân phụ là cụ Diệp Văn Kỷ, một vị lương y nổi tiếng, về sau ông xuất gia học Phật với Tổ Hải Thiệu, có pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn, đắc pháp với Tổ Tâm Truyền, được pháp hiệu là Phước Điền, khai lập chùa Long An (Quảng Trị) và kế thế trụ trì chùa Sắc tứ Tịnh Quang. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cựu, mất sớm khi ngài vừa lên 9 tuổi.

Năm lên bảy, một hôm Tổ Tâm Tịnh về quê, đến nhà thăm, thấy ngài diện mạo khôi ngô bèn tỏ lòng ưu ái, huyền ký cho con đường xuất thế. Nghe vậy cụ ông vui mừng khôn xiết, đặc biệt lưu tâm đến việc học hành của ngài, liền mời thầy về nhà dạy riêng, để un đúc tương lai cho ngài với lòng ước mong được như lời Tổ dạy.

Năm 17 tuổi (1922 - Nhâm Tuất), sau mười năm đèn sách, ngài đã làu thông Nho học. Nhưng tư tưởng về nhơn sanh vũ trụ và phương pháp lập thân xử thế của Lão, Nho đã không làm thỏa mãn được lý tưởng của người thanh niên trí thức ấy khi đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Cho đến khi được song thân nhắc lại việc Tổ Tâm Tịnh đã huyền ký ngày xưa, ngài mới nghĩ đến con đường xuất gia học đạo.

Điều này khiến cho chí xuất trần của ngài trưởng thành. Năm 19 tuổi, ngày 19-6-Quý Hợi (1923), được sự chấp thuận của phụ thân, ngài vào chùa Tây Thiên đảnh lễ Tổ sư Tâm Tịnh, xin được xuất gia tại đây.

Một năm sau, cũng đúng vào ngày vía Quan Âm (ngày 19-6 năm Giáp Tý - 1924), nhờ học hạnh kiêm tồn và chí nguyện xứng đáng, ngài được đặc cách cho thọ tam đàn Cụ túc tại Giới đàn chùa Từ Hiếu, do chính Bổn sư làm đàn đầu. Thọ giới được hai năm thì Bổn sư viên tịch (1926), ngài bèn đến chùa Hồng Khê cầu pháp với sư huynh là Hòa thượng Giác Viên.

Năm 1927, ngài được 22 tuổi, trường Phật học Thập Tháp tại tỉnh Bình Định khai mở, do Tổ Phước Huệ - bậc danh Tăng nổi tiếng làm Giáo thọ, ngài cùng một số vị khác như Hòa thượng Chánh Huy, Chánh Thống, Viên Quang vào đây tham học.

Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, trường Trung học, Đại học Phật giáo được mở tại Tây Thiên, Tổ Phước Huệ được cung thỉnh từ Bình Định ra làm giáo thọ. Với tinh thần hiếu học cầu tiến không ngừng, ngài tiếp tục theo học chương trình Đại học tại đây và được bầu làm Thủ chúng cả hai trường. Ngài cũng làm Giáo thọ cho Phật học đường Báo Quốc và Ni viện Diệu Đức - Huế.

Ngay từ lúc còn ngồi ghế Đại học tại Tây Thiên, ngài được mời làm Giảng sư của Hội An Nam Phật học. Năm 1936, tốt nghiệp Đại học Phật giáo, ở tuổi 32, ngài được mời làm Giáo sư cho Phật học đường Báo Quốc và Luật sư cho Sơn môn Thừa Thiên. Từ đó ngài đã trở thành một hạt nhân tích cực của phong trào chấn hưng Phật giáo và là giảng sư nòng cốt của Hội Việt Nam Phật Học. Ngài đã đi giảng dạy khắp các tỉnh miền Trung, nhất là tại Đà Nẵng và Quảng Nam.

Năm 1940 và 1942, ngài hai lần sang thuyết giảng ở một số tỉnh có đông Việt kiều tại Lào, đàm đạo với vua Sãi và tham lễ tại một số nơi ở vương quốc Phật giáo này.

Năm 1945, ngài thay thế Bác Sĩ Tâm Minh-Lê Đình Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Hội An Nam Phật học (Thừa Thiên). Cũng trong năm này, ngài nhận chức trụ trì Quốc tự Linh Mụ - một di tích lịch sử của cố đô Huế. Sang năm 1946, ngài làm Chủ tịch Phật giáo Liên hiệp Trung bộ.

Năm 1947, cùng chung số phận với hàng loạt các cơ sở Phật giáo cả nước, chùa Linh Mụ cũng bị Pháp đánh phá và chiếm đóng. Ngài bị Pháp bắt, tra tấn và sau cùng bắt tự đào huyệt chôn mình và suýt bị bắn chết, may nhờ bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) can thiệp mới được thả.

Năm 1948, ngài làm cố vấn đạo hạnh Hội Phật học Trung phần; ngài được thỉnh làm Tuyên luật sư Đại giới đàn Báo Quốc - Huế (năm 1949), năm này ngài thay cố cư sĩ Chơn An-Lê Văn Định giữ chức Chánh Hội trưởng Tổng Trị sự Hội Phật học Trung phần.

Năm 1951, ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Giới đàn tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn, sau đó được Sơn môn Tăng-già Trung phần mời làm Giám luật. Qua năm 1952, Giáo hội Tăng-già toàn quốc được thành lập tại Hà Nội, ngài được suy cử làm Giám luật.

Năm 1956, Ngài thành lập và làm Chủ nhiệm Liên Hoa văn tập. Năm 1958, Liên Hoa văn tập được chuyển thành Liên Hoa nguyệt san cũng do chính Ngài làm chủ nhiệm.

Năm 1963, ngài tham gia đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào đấu tranh chống chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đêm pháp nạn 20-8-1963, ngài bị bắt tại chùa Diệu Đế và bị đưa đi giam giữ.

Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, ngài được cử làm Chánh Đại diện miền Vạn Hạnh.

Năm 1965, ngài được cung thỉnh làm Yết-ma A-xà-lê tại Đại giới đàn Từ Hiếu tổ chức tại tổ đình Từ Hiếu - Huế.

Từ năm 1968, ngài được mời tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, ngài vào chiến khu, ra Hà Nội. Từ đây, ngài lại càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi Đạo ích Đời.

Tháng 1-1968: làm Phó Chủ tịch Liên minh các lực lượng Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam. Tháng 6-1968: Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.


Năm 1970, đi tham quan văn hóa, tôn giáo ở Liên Xô và Trung Quốc. Năm 1971, đi dự Đại hội thành lập Tổ chức Phật giáo Châu Á vì Hòa bình ở Mông Cổ và được cử làm Ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hội Phật giáo Châu Á vì Hòa bình.

4.JPG
Quang cảnh lễ tưởng niệm HT.Thích Đôn Hậu


Năm 1975, đất nước thống nhất, ngài trở về chùa cũ (Linh Mụ) và sau đó được mời làm cố vấn cho Ban Chỉ đạo Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

Năm 1976, ngài đắc cử Đại biểu Quốc hội khóa VI nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Cũng chính trong năm này, ngài được mời giữ chức Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Từ năm 1976-1986, liên tục trong mười năm liền, ngài giảng dạy kinh luật cho Tăng Ni ở Huế tại các chùa Linh Mụ, Báo Quốc và Linh Quang.

Năm 1977, Đại hội kỳ VII Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tại Ấn Quang, ngài được suy cử vào Hội đồng Trưởng lão của Giáo hội và giữ chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng thống.


Năm 1979, đức Đệ nhị Tăng thống - Hòa thượng Thích Giác Nhiên viên tịch. Đại hội kỳ VIII chưa tổ chức được, Hội đồng Lưỡng viện cung thỉnh ngài kiêm chức vụ Xử lý Viện Tăng thống.

9.JPG

14.JPG
Chư tôn đức Tăng Ni

16.JPG
Và Phật tử thành kính hướng về ngài


Năm 1981, Đại hội đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ - thủ đô Hà Nội, đã suy tôn ngài vào Hội đồng Chứng minh là Đệ nhứt Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1977, 1981 và 1983, ba lần ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới đàn tại chùa Báo Quốc và Trúc Lâm - Huế.

Ở tuổi ngồi bát tuần, sức khỏe của ngài đã giảm sút rất nhiều, thân ngũ uẩn như chiếc xe cũ, đèn dầu cạn, nhân duyên hội họp đã mãn. Hóa duyên đã tròn, Hòa thượng an nhiên thu thần hội nhập vào cảnh giới an lạc tịch tĩnh vào ngày 23-4-1992 (21-3-Nhâm Thân) tại tổ đình Linh Mụ (TP.Huế), trụ thế 88 năm, trải qua 68 mùa An cư kiết hạ.

Dù Phật sự đa đoan và cuộc đời hành đạo gặp nhiều gian truân, nghịch cảnh, Hòa thượng cũng đã để lại một số tác phẩm rất có giá trị do chính ngài dịch giải biên soạn như: Cách thức sám hối các tội đã phạm, Phương pháp tu quán, Tứ nhiếp pháp, Cảm ứng tự nhiên, Đâu là con đường hạnh phúc, Đồng mông chỉ quán, Sinh mệnh vô tận hay là Thuyết luân hồi, Luật Tứ phần Tỳ-kheo-ni.

Ngoài ra còn có một số bài đăng trên các báo Viên Âm, Liên Hoa.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày