UNESCO công nhận danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản thế giới

Chùa Đồng trên đỉnh non thiêng Yên Tử - một trong 12 thành phần di sản chính của Di sản thế giới thứ 9 của Việt Nam - Ảnh: Nguyễn Hùng
Chùa Đồng trên đỉnh non thiêng Yên Tử - một trong 12 thành phần di sản chính của Di sản thế giới thứ 9 của Việt Nam - Ảnh: Nguyễn Hùng
0:00 / 0:00
0:00
Vào lúc 18 giờ hôm nay, 12-7 (theo giờ Việt Nam), tại Paris (Pháp), UNESCO đã công nhận Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản thế giới.

Như vậy, Việt Nam có 9 Di sản thế giới do UNESCO công nhận và là di sản thế giới liên tỉnh thứ 2 của cả nước, cũng như của tỉnh Quảng Ninh, sau Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà.

Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới theo các tiêu chí (iii) và (vi), là bằng chứng cho sự kết hợp độc đáo giữa nhà nước, tôn giáo và nhân dân trong việc hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam; cùng cảnh quan linh thiêng được hình thành thông qua mối tương tác thường xuyên, mật thiết với thiên nhiên và một hệ thống đạo đức dựa trên lòng yêu chuộng hòa bình, tu dưỡng bản thân, lòng khoan dung, nhân ái và sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên.

Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông trên Yên Tử - Ảnh: Nguyễn Hùng

Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông trên Yên Tử - Ảnh: Nguyễn Hùng

Trong đó, Tiêu chí (iii): Là sự kết hợp hài hòa giữa Nhà nước, tôn giáo và cộng đồng nhân dân được phát triển từ vùng đất quê hương miền núi Yên Tử, đã tạo ra một truyền thống văn hóa độc đáo có ý nghĩa toàn cầu, định hình bản sắc dân tộc, thúc đẩy hòa bình và an ninh trong khu vực rộng lớn hơn.

Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc là minh chứng đặc biệt về Phật giáo Trúc Lâm, một truyền thống Thiền độc đáo của Việt Nam được thành lập vào thế kỷ XIII bởi các vua nhà Trần, hoàng gia và các nhà tu hành thông tuệ, đặc biệt là Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị quân chủ duy nhất được biết đến ở châu Á đã tự nguyện từ bỏ vương vị để trở thành một nhà tu hành, có công khai sáng nên một dòng Thiền mang đậm triết lý nhân sinh, cốt cách Việt Nam.

Tích hợp giáo lý Đại thừa với sự tổng hợp Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng bản địa, tạo nên bản sắc tâm linh – triết học độc đáo, Phật giáo Trúc Lâm đã góp phần định hình nền tảng tinh thần của quốc gia Đại Việt, tạo động lực cho sự trỗi dậy của một quốc gia tự chủ, tự cường, đồng thời thúc đẩy đối thoại văn hóa, tinh thần hữu nghị hòa bình giữa các dân tộc. Trong suốt nhiều thế kỷ, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc luôn là nơi có vai trò quan trọng trong việc thực hành, trao truyền và lan tỏa, sáng tạo văn hóa. Tinh thần khoan dung, sáng tạo của Phật giáo Trúc Lâm đã truyền cảm hứng và giá trị nhân bản cho cộng đồng trong nước và quốc tế.

Đoàn đại biểu Việt Nam tại phiên họp xem xét ghi danh Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản thế giới - Ảnh: Sở VHTTDL Quảng Ninh

Đoàn đại biểu Việt Nam tại phiên họp xem xét ghi danh Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản thế giới - Ảnh: Sở VHTTDL Quảng Ninh

Tiêu chí (vi): Phật giáo Trúc Lâm là một minh chứng có ý nghĩa toàn cầu về cách thức một tôn giáo, xuất phát từ nhiều tín ngưỡng, bắt nguồn và phát triển từ quê hương Yên Tử, đã ảnh hưởng đến xã hội thế tục thúc đẩy một quốc gia mạnh mẽ, bảo đảm hòa bình và hợp tác khu vực.

Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc liên quan trực tiếp đến sự sinh thành và lan tỏa giá trị sáng tạo, nhân văn của Phật giáo Trúc Lâm. Việc liên tục tổ chức các nghi lễ, lễ hội, hoằng dương Phật pháp và hành hương đến các điểm di tích - cả ở Việt Nam và các tổ chức Phật giáo Trúc Lâm quốc tế - chứng minh sự liên quan toàn cầu bền vững của triết lý nhân sinh, giá trị sống, tinh thần cộng đồng xã hội, sống hài hòa với thiên nhiên, yêu chuộng hòa bình và lòng nhân ái.

Với 12 cụm, điểm di tích, quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc thể hiện đầy đủ truyền thống Phật giáo Trúc Lâm, từ việc thành lập tại vùng núi thiêng Yên Tử được chứng minh trong các đền cổ, am, tháp, di tích khảo cổ, đến di tích Chùa Vĩnh Nghiêm và Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc và sự hệ thống hóa các triết lý thể hiện qua các văn bia, di vật liên quan và thực hành nghi lễ. Các di tích này cung cấp đầy đủ đại diện về lịch sử, tinh thần và địa lý của Phật giáo Thiền Trúc Lâm, thể hiện quá trình hình thành, phát triển, mối quan hệ bền vững của các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu trong các không gian lịch sử, văn hóa.

Quang cảnh kỳ họp

Quang cảnh kỳ họp

Quần thể có tổng diện tích vùng lõi 525,75 ha, tổng diện tích vùng đệm là 4.380,19 ha. Trong đó, vùng lõi gồm 12 thành phần di sản chính, phản ánh đầy đủ các giai đoạn hình thành, lan tỏa và phục hưng của thiền phái Trúc Lâm.

12 thành phần di sản chính gồm:

1. Chùa Hoa Yên, Yên Tử, Quảng Ninh: Trung tâm tu hành của Phật hoàng Trần Nhân Tông, nơi hình thành Thiền phái Trúc Lâm.

2. Am Ngọa Vân, Yên Tử, Quảng Ninh: Nơi Phật hoàng nhập diệt, được coi là thánh địa thiêng liêng nhất của Thiền phái.

3. Thái Miếu, Quảng Ninh: Các điểm thiền định cổ trên tuyến hành hương Yên Tử, tiêu biểu cho thực hành tu tập giữa rừng thiêng.

4. Bãi cọc Bạch Đằng (Yên Giang), Quảng Ninh: Di tích lịch sử vật thể, phản ánh tư tưởng nhập thế và tinh thần bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc.

5. Chùa Lân (Long Động), Quảng Ninh: Trung tâm giảng pháp, đào tạo tăng tài, gắn với hoạt động tổ chức Phật sự của Trúc Lâm.

6. Chùa Côn Sơn, tỉnh Hải Dương cũ (nay là Hải Phòng): Nơi tu hành của Tam tổ Huyền Quang, trung tâm phát triển tư tưởng nhập thế của thiền phái.

7. Đền Kiếp Bạc, tỉnh Hải Dương cũ (nay là Hải Phòng): Gắn với Trần Hưng Đạo, biểu tượng kết hợp giữa hộ quốc an dân với tinh thần Phật giáo Trúc Lâm.

8. Chùa Thanh Mai, tỉnh Hải Dương cũ (nay là Hải Phòng): Nơi đây gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp của Thiền sư Pháp Loa, vị tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm Tam tổ, khi ngài tu hành, biên soạn kinh, sách về đạo Phật lúc sinh thời.

9. Động Kính Chủ, tỉnh Hải Dương cũ (nay là Hải Phòng): Được ví là 'Nam thiên đệ lục động' tức động đẹp thứ sáu ở Việt Nam.

10. Chùa Nhẫm Dưỡng, tỉnh Hải Dương cũ (nay là Hải Phòng): Nơi tu hành của Hòa thượng Thủy Nguyệt, pháp hiệu Thông Giác Đạo Nam Thiền sư.

11. Chùa Bổ Đà, tỉnh Bắc Giang cũ (nay là Bắc Ninh): Nơi tu tập, đào tạo tăng chúng, nổi bật với hệ thống thư tịch cổ và vườn tháp độc đáo.

12. Chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang cũ (nay là Bắc Ninh): Trung tâm in khắc và lưu giữ hơn 3.000 mộc bản kinh Trúc Lâm, được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày