Pho tượng cao 14 thước (tương đương 6,1m) được đặt trong hậu cung đền Bộ Đầu (Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội), tái hiện toàn bộ cuộc đời ông đã được ghi trong thần phả.
Chưa rõ chất liệu làm tượng. Kết tinh văn hóa dân tộc TS. Cung Khắc Lược thuyết minh về bức tượng. Quan sát trắc diện hay chính diện đều thấy một trục thẳng giữa chân và cột sống, các huyệt của chân ăn với cơ địa đất, đặt cả bàn theo hình trụ vững chãi. Hệ thống áo mũ của tượng dù dùng để khắc họa triều Hùng Vương nhưng phảng phất dáng dấp thời Lê - Trịnh, có nhiều nét vượt cung đình, có nếp hồn hậu, sắc sảo, nhưng cũng phóng khoáng của dân gian. Ngôi tháp trên tay trái Thánh Dóng bị đánh cắp đã được thay bằng một ngôi tháp khác. Ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ. Vì chi tiết này, tôi ngưỡng mộ chất văn minh của người con đối với mẹ, trí tuệ người Việt cổ và chất lãng mạn của người làm tượng cũng như sự lãng mạn của cả một thời đã tạo nên bộ thần phả. Đó là một biểu tượng chứa rất nhiều biểu tượng: Của tim, của não, của trí tuệ và tâm linh - TS. Cung Khắc Lược nói. (Đáng tiếc, ngôi tháp ba tầng đã bị đánh cắp. Sau này, khi được tôn tạo lại, người ta đã làm một ngôi tháp khác đặt lên bàn tay trái của Đổng Sóc). Cung Khắc Lược và nhà sư trụ trì bàn về đôi câu đối ngoài sân đền.
Công bố về hai bộ thần phả dòng họ Đổng của TS Hán học Cung Khắc Lược và Lương Văn Kế đăng trên Báo GĐ&XH Cuối tuần đã mang lại nhiều suy nghĩ mới về văn hóa xã hội thời Hùng Vương. Di sản vật thể gắn với những tư liệu mới này là hai ngôi đền nằm yên bình bên sông Hồng và đặc biệt bức tượng cổ Đức Đổng Sóc Thiên Vương cao 6,1m có niên đại từ thời chúa Trịnh Tùng (1550 -1623).
TS. Lương Văn Kế cho biết, vì chưa có nhà khảo cổ nào về thẩm định nên không thể khẳng định về mặt chất liệu nhưng có lẽ bức tượng được làm bằng chất liệu truyền thống: đất sét trộn trấu. Còn theo ông thủ từ đền, thì bức tượng được làm bằng mật, vôi và muối.
Pho tượng cao 14 thước (tương đương 6,1m) được đặt trong hậu cung đền Bộ Đầu (Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội), tái hiện toàn bộ cuộc đời ông đã được ghi trong thần phả. TS Lương Văn Kế cho rằng đây là bức tượng Thánh Dóng cổ cao nhất nước Việt. Bởi tương truyền, nguyên sơ tượng cao hơn 10m, gồm cả phần bệ. Tuy nhiên, do đình làng Bộ Đầu thấp, người ta đành bàn nhau bỏ bớt bệ tượng đi.
Pho tượng được tạc theo phong cách nghệ thuật dân gian: Dáng to thô, oai phong, kỳ vĩ rất phù hợp với đặc trưng con người của vùng đất phải liên tục chống chọi với giặc giã, thiên nhiên. Tỷ lệ bức tượng mang đúng cấu trúc của nhân thể học Phương Đông, có khối, đặc, chắc, đường bệ, vững chãi. Lưng tượng thẳng, đặc điểm căn bản nói rõ chất lượng cột sống cũng như phẩm hạnh của con người.
"Điều đặc biệt nữa là họa tiết rồng phượng trên mũ khác hẳn với họa tiết thời Lê - Trịnh. Chiếc mũ ngài đội có kết tinh của Thiên Vương thời Lê - Trịnh, tức là vừa là người, vừa là thần, vừa là người có lí lịch vừa là người siêu lí lịch. Vấn đề thú vị nhất nằm ở đây: Tính phi chủ nghĩa. Nhìn vào bức tượng, ta không thấy đặt ra vấn đề chủ nghĩa nào cả. Điều đó giải thích được rất nhiều về cuộc đời ngài, vừa cao sang, vừa gần gũi, một cuộc đời mang đầy triết thuyết của một vị võ tướng mà vẫn có sự yêu chiều của một người con trai dành riêng cho mẹ" -T.S Cung Khắc Lược gợi mở.
Khai mở thêm văn hóa Hùng Vương?
Dưới chân bức tượng là hai con vật của thời kỳ lịch sử xa xưa, mang nhiều đặc điểm của loài thủy tộc. (Trong thần phả ghi rất rõ là Thánh Dóng đã đạp lên hai con giao long để cứu mẹ). Nhưng sóng nước vấn vít quanh hai con giao long nên hình ảnh không gợi ra sự dữ dội ghê gớm. "Đây cũng là đặc trưng sóng của vùng Nam Á", TS. Cung Khắc Lược bình luận. "Sóng có những nốt hoa chứng tỏ sông Hồng ở đây sẽ có những chỗ xoáy và chỗ nguy hiểm, đồng thời cũng nói lên thời cuộc lúc thay đổi. Nghệ sĩ làm bức tượng tài hoa này rất hiểu biết về cuộc sống của người dân vùng sông nước, nói rõ rằng, người Việt luôn phải đứng vững trên sóng nước và kiểm soát được những loài thủy tộc hung dữ thì đời sống, hạnh phúc mới bền bỉ và lâu dài được".
Hai bên tả hữu bức tượng là Bát Bộ Thiên Vương, chứng tỏ một sự hài sinh giữa tâm linh Việt và Phật giáo Ấn Độ, phản ảnh rất rõ sự xâm nhập của Phật giáo vào đời sống tâm linh của người Việt.
Ngôi tháp bên phía tay trái của Đổng Sóc thể hiện quan điểm triết học về mẹ của người Việt cổ. Loại triết thuyết đã góp phần làm nên một đạo Mẫu đặc biệt thuần Việt. Thần phả kể rằng: Phù Đổng Thiên Vương sau khi đã ủy thác lại việc chăm sóc mẹ cho vua Hùng như một nghĩa vụ quốc gia để về Trời, khi thấy mẹ bị giao long hãm hại, đã trở về, một chân giẫm chết đôi quái vật, chân kia quỳ xuống, nhẹ nhàng nâng mẹ từ dưới đất lên lòng tay trái và thi thể mẹ hóa ngay trong lòng tay vĩ đại của Người thành một ngôi mộ tháp.
Việc đặt thanh long đao và mẹ ngang nhau thể hiện cho thấy ngài luôn đặt việc nước và mẹ ngang nhau. Điều thú vị là mẹ ngài đã trở thành một biểu tượng vĩnh hằng chứ không còn là thây người nữa. Tôi lại một lần nữa kính cẩn trước nghệ nhân làm tượng. Họ đã lấy tháp ba tầng, tức là mô hình tam thế: Quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều này chứng tỏ người Việt thời đó đã từng nghĩ đến sự tồn tại mãi mãi của một thực thể Mẹ lớn lao trong ba thời.
Ngôi đền với kiến trúc hình chữ Phẩm trong Phẩm Hạnh còn để lại một gian Tả Mạc mang đôi câu đối: "Hiếu đức quang minh trương nhật nguyệt/ Trung tinh hiển hách chấn càn khôn). Tạm dịch: "Đức hiếu vằng vặc giữa trời đất, đẹp vô cùng giữa trời không bao giờ mờ/ Tinh trung (Tinh trung hiển hách lúc nào cũng rạng rỡ như chính bản chất của nó, không có nó thì vũ trụ tan nát, nên nó trấn bảo vệ giữ cho vũ trụ, cho đời sống của nhân loại) được thử thách, bất luận thời đại, thời gian".
Ở giữa có tấm hoành ghi: "Thủy nhiễu hoa hoàn". TS. Hán học Cung Khắc Lược dịch giải: "Nước là vật chất mang một công đức công năng tuyệt vời, luôn gắn bó quấn quýt, không xa rời, không chia lìa, gắn với người Việt ở Nam Á. Kết quả là hoa hoàn, đơm hoa kết trái như vòng kim cương, gắn đến công cuộc xây dựng đất nước".
Những yếu tố căn bản hình thành hình tượng Thánh Dóng trong bộ thần phả quý được kết tinh tại tấm hoành và đôi câu đối cũng như bức tượng này. Sự coi trọng việc nước và trị thủy, niềm trung bất diệt đối với dân tộc và lòng hiếu thảo với cha mẹ sinh thành.
Di tích này còn cho thấy nhiều vấn đề lịch sử, văn hóa Việt thời Hùng Vương được gợi mở.