Cái không/ biết giác là gì (*)

GN - Chúng ta thường vẫn nghĩ về Phật pháp như một bầu trời tâm linh bí ẩn, đường về Niết-bàn xa thẳm. Rồi rong ruổi tìm những điều thâm sâu để gom thành cái gọi sở tri. Nhưng điều bất ngờ nhất, Đức Phật vẫn thường dạy ở mỗi chúng sanh đã sẵn Phật tánh; bởi vô minh, nó “ẩn hiện” qua sáu căn trong từng giây phút.

Cũng bởi chúng ta luôn thấy sự thật trần ai nhưng chúng ta không thấy như thật vạn pháp. Chúng ta nhọc công tìm Phật tánh trong cõi ảo, bởi chúng ta không đứng nổi trên cái Không không có căn nền của giới định tuệ. Không có tuệ giải thoát, Phật tánh sẽ được trình hiện qua ao tù của ý thức.

buddha.jpg
Chúng ta thường vẫn nghĩ về Phật pháp như một bầu trời tâm linh bí ẩn, đường về Niết-bàn xa thẳm...

Có một sự thật gần như nỗi đau, là với chúng ta dẫu sao Phật tánh vẫn quá xa vời. Rải rác trong kinh nghiệm của nhiều đại đệ tử, khi đã nhận trong mình hiện hữu một thường hằng Quang minh từ vô thủy, họ còn phải buông mình trở về với sự trần trụi để nhận lãnh sự giáo thọ tiếp tục từ vị Ân sư Tâm linh cũng như sức gia trì của chư Phật để không làm mồi cho tự ngã. Chưa thể khai ngộ, nhưng để đi đúng lộ trình Chánh pháp chúng ta phải thấu nhận cho được mật nhân Bồ-đề. Quá trình suy ngẫm qua việc tiếp cận kinh luận và minh chứng về sự có tu có chứng của tiền bối, ở đây xin phép gọi Nó là Cái Tự Biết.

Cái tự biết vốn hoàn thiện và viên mãn ở mỗi chúng sanh. Có đầu lại chồng thêm đầu, là căn bệnh trầm kha; đã có cái tự biết còn đặt thêm một cái biết [để biết về cái tự biết], trong kinh Lăng Nghiêm gọi đó là gốc của sanh tử: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn”. Một khi hành giả bước đi tầm cầu cái tự biết, chính là đang bỏ lại chính nó. Cái tự biết nhiều lúc vẫn được quy cho khái niệm về nhân Phật tánh, (sự chứng ngộ cũng là từ nhân này, tức trong nhân đã có quả). Với hành giả chưa vững giới, được chỉ ra Phật tánh, không chừng sẽ nhầm đó là quả Phật tánh, lấy đó bao biện cho sự phá giới và sớm trở nên buông lung, giải đãi, thỏa hiệp với nghiệp lực. Lý do này khiến hệ Bát-nhã luôn là điều cấm kỵ tiếp cận quá sớm.

Tôi vẫn mạo muội tùy tiện nghĩ rằng, ở góc độ căn cơ mà xét, biết đâu chừng việc nhận thẳng nhân Phật tánh luôn là con dao sắc và nó có thêm một lưỡi phụ có thể cắt nát cuộc đời của một hành giả còn xanh non về giới, về phát tâm Bồ-đề nối dài huệ mạng chư Phật. Không chừng Đức Phật không muốn trực chỉ, dẫu Ngài có dạy “Chúng sanh vốn dĩ là Phật”. “Ông Phật” ở đâu trong mỗi phàm nhân luôn là một câu hỏi lớn; trong lúc Đức Bổn Sư phải dẫn qua những nẻo “đường vòng” để chúng sanh có đủ thời gian thành tựu Chân đế lẫn Tục đế.

Rất nhiều chia sẻ của các bậc chân tu khiến chúng ta khẳng định rằng, nhận cái tự biết, họ thấy cái tự biết ở họ đồng với bất cứ chúng sanh nào nhưng người ta đều không thấy và đương nhiên không sống được với nó. Nhận cái tự biết là khởi đầu cho một nhịp sống đầy cảm xúc trong sự tĩnh lặng sâu xa. Họ cũng luôn nhắc chúng ta chớ đồng nhất cái tự biết với nhận Tánh (hiểu ở cấp độ giải ngộ), sẽ khiến hành giả phá bỏ nền tảng, lún vào con đường thoái đọa. Cái tự biết hiển hiện ở mọi chúng sanh nhưng để thấy báu vật này luôn đòi hỏi phải có tuệ. Chúng ta rất dễ nhận ra ở những vị có chứng một phong thái mà từ bi và trí tuệ hòa lẫn đến khó phân biệt. Ở họ có một nội lực sống tràn cả ra ngoài. Như một ngọn núi trầm mặc, lừng lững quyền uy song “không có gì cả”. Tuệ ấy phát xuất từ đâu? Là từ định. Định ở đây gồm hai cấp: tĩnh địnhđộng định (thường tại định). Vậy làm sao có định? Là giới. Định và tuệ có thể phát xuất “đồng thời”.

Từ giới dễ sinh ngay ra tuệ, nhưng không có giới thì cái có được chỉ là tri thức (từ đọc và học kinh luận) và phước hữu lậu (từ công phu hành pháp). Nghĩa là nếu không giới, một hành giả tu bất cứ pháp môn nào dẫu miên mật bao thời chăng nữa, việc họ muốn có một trú xứ tịnh lạc là viển vông. Giới sẽ tạo nên một động lực cho giải thoát. Chúng ta sẽ kiếm vàng mắt cua để tìm cho ra một vị tu chứng mà xem thường giới luật, bỏ ngang sự khiêm cung, trừ những Bồ-tát nghịch hạnh luôn giắt bên mình quyền/thiện xảo. Sự cung kính tuyệt đối Tam bảo ở những cử chỉ hành động nhỏ nhặt nhất, sẽ tạo nên siêu năng lượng chiêu cảm lực tịnh khiết từ pháp giới; năng lượng đó bao quanh hành giả và đó chính là lâu đài vi diệu của họ. Giữ giới là giữ mạng. Một hành giả cầu tâm giải thoát, cần xem mười thiện giới là cửa ải đầu tiên trên hành trình giác ngộ. Đức Phật vì phương tiện nên dành sự ưu ái cho hàng cư sĩ vướng thế tục; song một khi hành giả muốn đột phá tầng tâm thức thì họ cần hiểu phải rơi rớt những gì.

Con đường giải thoát là giải thoát ngay những phiền não trong cuộc sống. Không có chân lý cho một hành giả dùng “tha lực” bao biện cho sự chấp trước về tự ngã. Một hành giả có thể chưa giữ trọn mười thiện giới, nhưng nỗ lực tháo gỡ nghiệp tập sẽ nhận được từ lực của chư Phật và Bồ-tát, của hộ pháp chư thiên kể cả ma quỷ và oan gia. Tha lực không đặt trên sự ảo tưởng; tha lực là điều mà người đệ tử Phật hoàn toàn cảm được, nhận được và hơn thế là sờ chạm được nằm ngoài sự huyễn hoặc.

Chúng ta chưa tin ma quỷ luôn ở bên mình, chúng ta chưa thấy hổ thẹn cùng cực với những hành vi xấu xa trong bóng tối thì sao tin nổi ánh quang minh rọi khắp Ta-bà. Quá sợ ma, là tin ma ở bên mình chứ chúng ta chưa đủ phước trí tin Phật hòa trong mọi chúng sanh. Mới biết tâm chúng ta tràn ngập bất an và sợ hãi. Để trốn tránh bất an và sợ hãi, chúng ta tiêu phước bằng cách đắm trong thụ hưởng, ngập trong thế giới phẳng của mạng mà không hay đó là cảnh giới đích thực của ma. Chỉ thói lướt web thôi, tâm chúng ta dẫu gắng lấy giới bao trì cũng không thể định. Chúng ta ngập trong cõi Dục, lẽ thường phải tu từ gốc dục! Quán bất tịnh để thấy mặt trái của Sắc [như dao], để có cái nhìn sáng suốt rằng ta đang đâm đầu vào cái hạ tiện nhất, từ lâu chúng ta mê vào tấm thân nghiệp báo từng khắc hiển lộ bóng dáng của thây ma giữa cơn lốc vô thường; để thấy từ lâu chúng ta luôn có thói phóng thích những gì tinh túy nhất của huệ mạng; để thấy “Lưới ma vương cánh chim bằng còn ngại/ Hố ái tình bậc hiền thánh còn e”.

Sụp mất nền tảng giới, hành giả sẽ không biết hoặc không còn quan tâm đến ma. (Họ nghĩ mình đã quy y thành đệ tử của Phật thì ma nào dám gần). Thật xót lòng quá đỗi. Ngửa bàn tay, năm ngón là ngũ ấm, mầm Phật pháp ta mới gieo giữa lòng nó mong manh làm sao. Ngũ ấm là nội ma. Không hiểu và xem thường ngũ ấm sớm muộn ta cũng bị kéo về nhận ma vương làm quyến thuộc. Thân kiến chưa nhẹ, nói gì đến thọ, tưởng và hành; thức thì dĩ nhiên chưa bàn tới. Phật pháp siêu thường song cần thực tế. Nếu mổ danh pháp kiểu như phanh một thây người ra 32 thể trược, ta sẽ thấy tâm không nhiều huyền hoặc. Nó là một bộ máy ảo hoàn hảo đến mức ta ngỡ thật; chúng ta sống trong ảo ảnh nhưng phải nhận quả báo thật, là nỗi đau duy chỉ Bậc Toàn giác phát hiện và cảnh báo. Cuộc sống tại cõi trần do không khámphá ngũ ấm, ta chấp chặt về một đời sống thật; thật thì kể cả một ý nghĩ (không “của ta”) xoẹt qua, chúng sanh kia cũng sẽ nhận nghiệp thảm khốc ở địa ngục.

Mất người thân, tang thương qua rồi ta vẫn tưởng lại muôn nghìn lần để nhấm nháp trong sự hả hê của ấm ma. Ma thông minh hơn ta tưởng rất nhiều. Thời nay, ma chỉ cần dúi vào tay mỗi người một điện thoại cảm ứng nối mạng, nó đã cơ bản hoàn thành việc đưa chúng sanh lọt vào đọa xứ. Lưới ma quá rộng, nên con cá tung tăng bơi mỏi vẫn không hề thấy mình “mắc cạn”, nhưng đơn giản là ma muốn tóm chúng ta lúc nào cũng được. Tâm chúng ta mở ra vô số cửa. Ma luôn chực phía ngoài, ta chỉ cần hé bất cứ cánh cửa nào chúng sẽ ập vào kể cả đó là cánh cửa sở đắc về sự vượt thoát. Trừ phi chúng ta thực chứng rằng ma là một ngoại lực tương tác để tăng nội lực trên hành trình giác ngộ. Ma thì ảo; bởi ta vẫn ảo nên ngẫu nhiên nhận nuôi ma. Bởi ta cam phận nhận mọi sinh khởi tham sân si là mình, đồng hóa mình với ma nên không cách gì thoát được! Nhập tông, nên chọn một câu trong kinh trì niệm đối kháng với vọng-tưởng-ma; nhờ cuộc tuyên chiến này Phật lực trong họ sẽ lớn mạnh. Rồi hành giả cần chuyển tầng công phu đi đến sự hòa giải với vọng tưởng, lìa vọng tưởng như một người đi rừng luồn vào tay con yêu tinh cái ống nứa. Câu kinh trở thành ngọn đuốc chỉ ra Cái Tự Biết, và chính câu kinh đó hoàn về cảnh giới Thường Tịch Quang mà minh chứng không quá hiếm trên đời.

Chúng ta từng nghe đến quen câu “Vọng tưởng là Bồ-đề”. Điều này vẫn có vẻ xa vời, tuy nhiên qua sự khai thị của các bậc đạo sư, chúng ta hiểu rằng với cái tự biết, nó thấu thị chân lý đó. Ngay chính sát-na nhận biết sự khởi sanh của Vọng là Chân. Khi Đức Phật chỉ lên cái bóng đèn và hỏi một vị Tỳ-kheo, ông có thấy bóng đèn đang đỏ kia chăng? Vị Tỳ-kheo đang bệnh nhìn lên, gật đầu. Đức Phật liền bảo, thì Ta cũng thấy như ông. Là thời khắc khai ngộ đặc biệt; thật hiếm song qua đó chúng ta cần hiểu Phật tánh có ngay ở sát-na vị Tỳ-kheo hoát nhiên thấy biết. Cái đó thường hằng, và, nó bình thường. Trọng yếu là Cái Bình Thường ấy phải được đặt trên nền của giới định tuệ. Thảy mọi điều trong kinh luật luận mà chúng ta “sở hữu”, nếu không phát xuất từ lực định hay lùi về là phát xuất từ lực giới, đều là chướng. Lại trộm nghĩ, chư Tổ sư với tâm đại bi thường đã “giấu” đi Phật bảo đối với ai đó chưa bắt đầu từ căn bổn giới; bởi sự tiếp nhận “độc chiêu” rất dễ trúng độc.

Những bộ kinh kỳ vĩ nhất trong hệ Đại thừa luôn chỉ ra yếu quyết của nhân giải thoát là nhìn thấu ngũ uẩn vốn hư giả. Cái hư giả không phải ta cứ nhắc đi nhắc lại là thành, không phải ta gật đầu là xong, mà phải soi chiếu quán sát thông qua mọi hoạt dụng đời sống gồm cả thiên nhiên cho đến vật vô tri. Không gì khờ dại hơn việc chụp bắt những hình tướng hư giả. Ta phải như thật thấy bản chất của nó vốn không tự thể ngay sinh đã tự diệt; cho đến khi biết ngắm nghía tham sân si khởi sinh ở thân tâm như ngắm sự vi diệu của một ngôi sao băng là ta đang tự ly khỏi bầu trời mộng ảo.

Sự thật có nhiều con chó nhìn thấy ma và thường đêm vẫn sủa bóng, nhưng không vì thế ai cũng cần nuôi chó canh chừng ma để tiếp tục ngủ vùi trong đêm trường mê muội.

Dương Thủy Triều

-------------------

(*) Tựa mượn thơ của tác giả Hồ Dụy:

“Cái không/biết giác là gì

Cái không biết/ sẵn/ giải nghi mê tình”.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thông tin hàng ngày