GN - Một chiều ngang qua vùng Hải Lăng - Quảng Trị, tôi dừng chân viếng tượng Địa Tạng lần Ngài “trở lại” cõi nhân gian. Địa Tạng - kho tàng Tâm, nơi sinh ra các Pháp. Địa Tạng kinh - cuốn kinh quý báu trong Phật giáo được mười phương chư Phật tới dự thính ghi lại nội dung quan trọng: khi Phật nhập diệt đã phó thác cho Bồ-tát Địa Tạng giáo hóa cõi Ta-bà. Điều đặc biệt, Bồ-tát nguyện cứu vớt hết thảy chúng sinh nơi địa ngục. Giờ đây tôi đang ngồi dưới chân Ngài, thật logic - nghĩ về cái chết.
Người ta sẽ đặt câu hỏi: Là một người trẻ, nghĩ đến cái chết bây giờ có quá sớm? Tôi sẽ trả lời: Không quá muộn song chẳng còn sớm nữa. Cái chết đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Không ai dám khẳng định người đang hấp hối sẽ chết trước một thanh niên khỏe mạnh. Cái chết sẽ đến thình lình, chóng vánh. Nó khiến chúng ta không kịp trở tay, không kịp nói những điều cần nói và làm những điều cần làm. Tần Thủy Hoàng thời thịnh trị dễ chừng xoay được cả trái đất nhưng việc tìm thuốc trường sinh thất bại. Cuối cùng cái chết thảm thương đến với ông ngoài dự liệu. Không ai sống mãi, biết mình sẽ chết, tại sao không chuẩn bị? Đời người, có mấy chục năm để chuẩn bị, nhưng người ta lại dùng thời gian đó sống vì bản ngã nên ngược với Đạo. Nếu nghĩ đơn thuần, chuẩn bị cho cái chết nghĩa là viết tờ di chúc phân chia của cải, và cụ thể hơn: lo trước đám tang mình, thì hết sức sai lạc.
Xin dẫn một ví dụ. Dượng tôi là giảng viên đại học môn Lý. Một người hiền lành, sống giản dị, cần kiệm, đặc biệt không tin thế giới tâm linh. Nghỉ hưu trên chục năm thì dượng phát hiện ung thư phải mổ hai lần, bệnh viện trả về. Thời gian chưa đầy tháng, ông bình thản tỉnh táo lo việc chung gia đình và lên kế hoạch đám tang. Sợ phiền đến con cháu và mọi người, ông dặn không được để dài ngày. Lời dặn quan trọng thứ hai là không nên tụng kinh...
Suýt nữa ông phạm sai lầm trầm trọng trong lời dặn thứ hai này. Hay nói khác đi, nhờ duyên phước nên con ông đã mời các cô ở chùa về tiếp dẫn. Các cô không phiền gì gia đình, đến cả bữa cơm cũng tự lo lấy, thay nhau niệm Phật từ 7 giờ sáng (lúc dượng tôi hấp hối) đến 6 giờ tối. Vài người bắt đầu thấy khó chịu, bảo ông bị “ép” nghe A Di Đà Phật nên không muốn đi. Tội nghiệp, các cô đến niệm Phật trong những giờ phút cuối cho dượng tôi an lòng về bên kia, ai ngờ dượng vẫn còn... khỏe. Hiểu ý vài người thân của dượng, các cô lặng lẽ ra về. Sáng hôm sau nữa ông mới mất, nghe tin các cô lật đật tới liền. Ngoài đời có ai tự nguyện giúp vô tư như vậy? Chỉ có tấm lòng bi nguyện của những người tu mới làm được thế. Các cô dặn để dượng tôi nằm yên, tuyệt đối không ai chạm vào trong vòng ít nhất 8 giờ, và các cô niệm Phật trong suốt thời gian đó. Thêm một nguyên cớ để số ít người nhà dượng tôi bằng mặt mà không bằng lòng.
Không khó để làm rõ điều này. Bên khoa học cho biết nhiều trường hợp chết lâm sàng, có thể sống lại. Còn Phật giáo giải thích rất thỏa đáng. Khi một người ngừng thở, phải cần từ 8 đến 12 giờ để thần thức rời hẳn thân xác. Có thể ví người mới ngừng thở như nồi nước sôi vừa nhấc khỏi lửa, phải chờ khoảng vài phút thì “lặng sóng”. Cũng vậy, người chết (lúc chưa đủ ít nhất 8 tiếng), ai đụng vào liền đau đớn, sinh phiền não sẽ ảnh hưởng không tốt cho sự tái sanh. Người cố chấp cho rằng các nghi thức Phật giáo chỉ dành cho những ai tu hành; mình không tu cớ gì thực hành các nghi thức tâm linh như trên. Nhầm! Cái chết là sự chung, đâu riêng chúng sinh hay Tăng Ni và Phật tử.
Trong đám tang của dượng, tôi đã “cãi” một người; đến cùng người này vẫn muốn thấy linh hồn tròn méo thế nào mới tin. Tôi hỏi, có phải tất cả kiến thức có trong đầu anh hầu hết do học/đọc sách. Anh gật. Vậy anh đã đọc về sự sống sau cái chết, đã đọc phía bên kia cõi sống, đã “xem” cảnh giới thân trung ấm? Anh lắc. Vậy sao tôi đưa anh tất cả loại sách quý đó do các vị Lama hóa thân, các vị am tường về cõi âm viết ra, sao không ngó qua. Rất khó! Tôi biết không phải cứ thông minh uyên bác là thẩm thấu tâm linh, bởi Phật đi vào mỗi người bằng đường tâm chứ không phải qua tri thức.
Giáo điển Phật giáo thừa nhận việc thân trung ấm của người đã mất vẫn nhận biết được tâm niệm của người sống; điều này cũng áp dụng được giữa người sống với nhau nếu có nội lực tâm linh. Ví như ai đó ghét, căm thù ta nhưng ta luôn luôn cảm thương, một lòng nguyện cho họ tốt hơn, lúc gặp lại tự dưng sự oán ghét và căm thù đó được hóa giải. Ấy là sóng tâm như khoa học vẫn dùng một dạng sóng khác kết nối các điện thoại và nhiều loại máy lại với nhau không hạn định thời không.
Dượng tôi thật may phước, vừa được các cô niệm A Di Đà Phật suốt 8 tiếng, lại có con cháu thành tâm hộ niệm cầu nguyện vãng sinh. Riêng tôi luôn luôn “nhắn nhủ” ông hãy hướng về vùng sáng. Phía ấy có vùng xám đen và vùng sáng trắng. Vùng sáng chính là Phật tiếp dẫn. Người chết trải nghiệm như vừa qua núi, linh hồn trở thành... mê hồn - hoang mang, phước đức lại mỏng nên thường sợ hãi chạy qua vùng đen - do nghiệp sinh, lâm vào địa ngục. Cho dù không tu, con người ta hấp hối và suốt nhiều giờ sau thần thức mới rời khỏi thân xác, danh hiệu A Di Đà Phật cứ dội vào tâm não; chỉ cần mang duy nhất câu Phật hiệu qua bên kia đã thật nhiều hy vọng siêu sanh. Bao nhiêu ý nghĩ trôi qua đầu; người sắp chết nghĩ về con cháu, nghĩ về vợ/chồng, bè bạn v.v…, ý nghĩ nào đến ngay ở khoảnh khắc sau cùng chấm dứt sự sống, sẽ ảnh hưởng một cách “nghiêm trọng” đến kiếp sau. Người sắp chết nhập tâm A Di Đà Phật, xác suất tạp niệm len vào những giây cuối đời càng ít, cơ hội được Phật độ càng lớn.
Tôi chẳng rõ dượng mình đã sanh về đâu, song ít ra dượng tôi không vô cùng đau đớn trong khoảng thời gian thần thức chưa rời hẳn. Đó là niềm an ủi lớn khiến tôi đỡ ân hận khi dượng đau yếu lại không có ở bên động viên an ủi.
Ai cũng sẽ hao hụt người thân. Hiểu đúng về phía bên kia cõi chết, chúng ta sẽ bớt đau khổ. Chính sự khóc than thương xót người chết quá bi thiết sẽ khiến họ luyến níu không bước nổi về vùng sáng mà chui vào màn tối ngạ quỷ, hoặc ở lại “sống” bên mồ mả của chính họ. Đa phần những vong hồn (còn ngoài mộ, lang thang) là những “người” đánh mất bảy cơ hội Phật và Bồ-tát đến tiếp dẫn trong bốn mươi chín ngày. Các nhà ngoại cảm ở Viện Tiềm năng về con người từng trò chuyện với nhiều trường hợp chết đã mấy trăm năm. Không dứt được cái tình, họ ở lại quanh quẩn bên người thân, chẳng ngờ cứ chứng kiến cảnh con cháu chít chắt nối nhau về trời mà mình vẫn còn đứng đó.
Chuẩn bị cho cái chết đúng nghĩa, là sống đời thanh đạm không tham ái, không để tám ngọn gió đời cuốn theo dòng ô trược uế nhiễm; là xả bỏ tham sân si, thanh lọc thân tâm, đập vỡ bản ngã trương phình che khuất cả mặt mũi tầm nhìn. Chuẩn bị cho cái chết, chúng ta sẽ không còn sợ hãi cái chết nữa. “Nếu bạn thương yêu những cái cây, mặt trời hoàng hôn, những con chim, chiếc lá rơi; nếu bạn nhận biết được những người đàn ông và phụ nữ đang rơi nước mắt, những người nghèo khổ, và thực sự cảm thấy tình yêu trong quả tim của bạn, liệu bạn sẽ sợ hãi cái chết? (Krishnamurti, Cuộc đời trước mặt).
Trên trời có bao nhiêu vì sao? Trái đất thậm chí còn nhỏ hơn cả chấm sáng dày đặc trên bầu trời. Con người trên Trái đất đó, hãy tưởng tượng, bé xíu biết bao. Bây giờ các nhà khoa học đã tìm ra dấu hiệu của sự sống trên sao Hỏa. Điều đó cho ta mường tượng về cuộc sống của lớp người nào đó từng tồn tại cho tới lúc sao Hỏa khô kiệt bởi văn minh công nghiệp, họ đã di trú tới một hành tinh khác (như Trái đất chẳng hạn). Trải qua một thời gian dài sao Hỏa hồi sinh, trong lúc Trái đất đang già cỗi... Cuộc sống trần ai chỉ là lát cắt đồng đại trong thăm thẳm chiều thời gian vũ trụ. Nếu ta chỉ tính “cái chớp mắt” này mà không chịu hiểu con người còn phải trải qua hằng hà sa số kiếp trước và kiếp sau nếu không chịu thực hành đạo pháp, thì sẽ thấy rất nhiều bất công oan trái. Khi chưa thể nhìn xa hơn, hãy sáng suốt nghĩ về sự chết của chính ta; hãy xem đây như một môn học rất bình đẳng với vô vàn các loại kiến thức khác vô tình hay hữu ý chúng ta đã nạp vào não trạng mình.