Trong niềm vui tươi mới của mùa xuân, mỗi người cần tự nhắc nhở bản thân về hành trình tu học chuyển hóa nội tâm để trong mỗi suy nghĩ và hành động đều phản chiếu sự hoan hỷ, bao dung và rộng lượng của Ngài. Trong thời quá khứ, vì khát khao mãnh liệt cứu độ chúng sinh, Bồ-tát Di Lặc đã phát tâm “Tu hạnh từ bi hỷ xả và phát nguyện không ăn thịt chúng sinh nên còn có hiệu là Từ Thị” [1, tr. 258]. Hướng về Ngài, chúng ta sống trọn vẹn trong ánh sáng từ bi của Bồ-tát, mở rộng tấm lòng nhân ái và hoan hỷ trong từng khoảnh khắc của cuộc sống.
Xuân Di Lặc không chỉ là một cái tên mà còn là tinh thần sống thấm nhuần hạnh phúc và tha thứ. Đây là cơ hội để mỗi người con Phật sống trong yêu thương và chan hòa, đồng thời cũng là dịp để chúng ta cùng nhau thắp sáng lòng từ bi mà Ngài đã lan tỏa trong cuộc đời này.
Nam-mô Đương lai Hạ sinh Di Lặc tôn Phật, hồng danh như một làn sóng nhẹ nhàng, dội vào tâm hồn mỗi người niềm hy vọng và ánh sáng của chân lý. Ngài là vị Phật tương lai, mang theo sứ mệnh kỳ diệu chuyển hóa tất cả nỗi khổ đau thành những hạnh phúc, an lành.
Tây vực ký có đề cập về điều này như sau: “Ngày xưa, khi Đức Như Lai ở tại thành Vương Xá, trên núi Linh Thứu, có bảo các Tỳ-kheo rằng: Trong đời vị lai, ở châu Thiệm-bộ này, khi ấy đất đai bằng phẳng, tuổi thọ trung bình của con người đến 80.000 tuổi, sẽ có người con nhà Bà-la-môn họ Từ (Từ thị), thân có màu vàng ròng, tỏa ánh sáng quang minh chiếu sáng, bỏ gia đình đi tu và thành Chánh giác, vì chúng sanh thuyết pháp trong ba hội” [7, tr. 307].
Đón xuân Di Lặc chúng ta cầu mong cho vạn sự kiết tường, cuộc sống đều như ý nguyện. Đó không chỉ là những lời cầu khẩn suông, mà là những hạt giống của lòng tin được gieo xuống, để mỗi người có thể chăm sóc, nuôi dưỡng cho tâm hồn thanh cao, từ đó cây đời sẽ đâm chồi nảy lộc, cho ra những hoa trái ngọt ngào trong năm mới, góp phần mang lại an vui.
Bồ-tát có tên là A-dật-đa, “Tàu dịch là Vô Năng Thắng, còn Di Lặc là họ, dịch là Từ Thị”.[6, tr. 444]. Trong kinh Pháp hoa (phẩm Tùy hỷ công đức) thì Di Lặc chính là A-dật-đa, đệ tử của Phật Thích Ca: “Phật bảo ngài Di Lặc: Ta nay rành rẽ nói cùng ông, người đó đem tất cả đồ vui thích thí cho sáu đường chúng sanh… A-dật-đa! Người thứ năm mươi như thế, xoay vần nghe kinh Pháp hoa, công đức tùy hỷ còn vô lượng vô biên…”[6, tr. 454].
Nhưng theo kinh Thuyết bổn (Trung A-hàm) thì A-dật-đa (Ajita) và Di-lặc (Mettaya) là hai nhân vật khác nhau. Trong khi A-dật-đa (Ajita) được thọ ký làm vua: “Này A-dật-đa! Một thời gian lâu dài ở vị lai, ngươi sẽ làm vua, hiệu là Loa, một vị Chuyển luân vương, …” [4, tr. 586]. Còn Di-lặc (Mettaya) thì được thọ ký làm Phật: “Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ tám vạn tuổi sẽ có Đức Phật hiệu là Di-lặc, Như Lai, Vô Sở Trước,…”[4, tr. 587].
Hình tượng Phật Di Lặc được biết đến như một vị Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ, hiện đang thực hiện sứ mệnh giáo hóa các Bồ-tát tại nội viện của cung trời Đâu-suất, nơi còn được gọi là Tịnh độ Đâu-suất. Đặc biệt, nơi này cũng là chốn mà Phật Thích Ca đã từng cư ngụ trước khi giáng xuống cõi Ta-bà. Di Lặc là vị Phật đương lai, cố nhiên có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp như những vị Phật khác. Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật có ghi rằng: “… Thiện Tịnh cha Từ Tôn, thấy hình con kỳ diệu, đủ ba mươi hai tướng, trong tâm rất vui mừng,… Thân vàng chói sáng lòa, tiếng như giọng Đại phạm, mắt giống lá sen xanh, chi thể đều viên mãn, mình dài tám mươi chẩu, vai rộng hai mươi chẩu, mặt rồng độ mười chẩu, đoan nghiêm như trăng tròn”[3, tr. 120-121].
Tượng Phật Di Lặc mà chúng ta thờ phụng hiện nay với chiếc bụng tròn trịa, nụ cười tươi tắn và tay cầm túi vải lớn là hóa thân của Ngài trong hình dáng Bố Đại Hòa thượng, một nhà sư giản dị ở Trung Quốc, với cuộc đời đầy ắp những câu chuyện ly kỳ:
“… Nhà Lương, Phụng Hóa châu Minh
Bố Đại Hòa thượng ứng hình nhơn gian
Trán đã nhăn lại mang bụng lớn
Thân no tròn miệng chớm cười hoài…”[5, tr. 392].
Người đương thời không hay biết rằng Ngài chính là hóa thân của Phật Di Lặc. Họ chỉ thấy một Bố Đại Hòa thượng, ăn mặc xuềnh xoàng, vai mang túi vải lớn, ánh mắt sáng ngời, nụ cười rạng rỡ trên môi. Ngài thường xuyên cho trẻ nhỏ bánh kẹo, vui đùa với chúng như những người bạn đồng hành, mang lại niềm vui và tiếng cười cho mọi người xung quanh.
Ngài sống một cuộc đời hoan hỷ, tự tại, hành đạo tùy duyên, như dòng suối mát lành giữa cuộc đời bộn bề. Mỗi bước đi của Ngài như một điệu nhảy của sự tự do, mỗi nụ cười như một luồng sáng xua tan bóng tối. Ngài không chỉ là một vị Hòa thượng, mà là một người bạn, một người thầy, một biểu tượng của lòng từ bi, bao dung và hoan hỷ. Đó cũng là lý do tại sao trước các chùa đều có tượng Phật Di Lặc với khuôn mặt vui vẻ, tươi cười chào đón mọi người. Một câu đối về Phật Di Lặc được viết như sau: “Trước mắt đều là người hữu duyên, gặp nhau thân nhau, cớ sao không mỉm cười hoan hỷ? Trên đời bao nhiêu việc gian khó, tự làm tự chịu, lý gì chẳng rộng lượng bao dung!” [8, tr. 273].
Trước khi viên tịch, Ngài để lại một bài kệ nghĩa lý sâu sắc, như một ánh sáng dẫn lối cho những tâm hồn tìm kiếm:
“Di Lặc thân Di Lặc
Biến hóa trăm ngàn ức thân
Thường hiện trong đời
Mà người đời chẳng ai biết”[2, tr. 146-147].
Sau khi Bố Đại rời bỏ cõi đời, mọi người mới nhận ra sự vĩ đại trong hình hài giản dị ấy. Họ bắt đầu tạc tượng để ghi nhớ và tôn kính Ngài, như một cách tri ân đến một tâm hồn cao đẹp.
Từ sự nhận thức sâu sắc về hành trạng và đạo lý của Đức Di Lặc, những thiện nam tín nữ Phật tử thường đón chào mùa xuân bằng những hoạt động đầy ý nghĩa. Họ sẽ đến chùa để lễ Phật, thực hiện những hạnh lành như cúng dường, phát tâm tu tập và tích cực làm những việc tốt đẹp. Những hành động này không chỉ giúp họ tiêu trừ phiền não và tai ương cho bản thân cùng gia đình mà còn cầu nguyện cho quốc thái dân an.
Đón xuân không chỉ đơn thuần là đến chùa cầu xin phúc lộc, an bình cho cuộc sống cá nhân, mà còn mở rộng tâm hồn, phát tâm rộng lớn, học theo hạnh nguyện cao cả của Phật Di Lặc. Đó là: “Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chính thật ấy là Di Lặc” [9, tr.506]. Cầm giữ giới hạnh là quá trình trau dồi đạo đức đầy thử thách mà mỗi người cần trải qua. Đây là sự thanh lọc tâm hồn, giúp chúng ta trở nên thuần khiết, như dòng nước trong lành chảy qua những ghềnh thác của dục vọng tầm thường. Khi chúng ta từ bỏ ghen ghét và tham lam, tức là đã giải phóng bản thân khỏi những ràng buộc, để mở lòng đón nhận tình yêu thương và sự đồng cảm.
Sự mở lòng, gắn bó với tha nhân như dòng suối mát lành nuôi dưỡng tâm từ bi và nhẫn nại. Mỗi hành động của chúng ta, dù nhỏ bé, đều có thể góp phần làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp hơn. Hãy nỗ lực rèn luyện tâm linh, như người nghệ sĩ chăm chút từng nét vẽ, tỉ mỉ và kiên nhẫn, để truyền bá giáo lý Phật-đà, giúp đời bớt khổ, xoa dịu những nỗi đau trong cuộc sống.
Đón xuân Di Lặc như thế, ta mới có thể tiếp nhận nguồn pháp lạc từ giáo lý Phật-đà, như dòng nước trong lành chảy mãi, mang lại an lạc cho tâm hồn và hòa quyện với cuộc đời. Mỗi bước đi trong mùa xuân này, hãy để lòng mình rộng mở, sẵn sàng đón nhận những điều tốt đẹp và chia sẻ yêu thương với mọi người.
-------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo
1- Thích Phước Đạt (2020), Giá trị văn học trong tác phẩm của thiền phái Trúc Lâm, Nxb Hồng Đức, TP.Hồ Chí Minh.
2- Thích Huệ Đăng (2011), Luận giảng kinh Viên Giác, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
3- Thích Đăng Quang (2016), Kinh nhật tụng, Nxb Hồng Đức, TP.Hồ Chí Minh.
4- Tuệ Sỹ (dịch và chú) (2013), Trung A-hàm I, Nxb Phương Đông, TP.Hồ Chí Minh.
5- Thích Minh Thời (biên soạn) (2016), Kinh nhật tụng, Nxb Tôn Giáo, TP.Hồ Chí Minh.
6- Thích Trí Tịnh (dịch) (2017), Kinh Diệu pháp liên hoa, Nxb Tôn Giáo, TP.Hồ Chí Minh.
7- Đại sư Huyền Trang (Thích Như Điển, Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải) (2022), Tây vực ký, Nxb Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh.
8- Thích Tinh Vân (Thích Vạn Lợi, Thích nữ Đồng Diệu dịch) (2023), Quản lý học Phật giáo từ góc độ kinh điển, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
9- Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý Trần - tập 2, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.