Trong đạo Phật không có kinh điển nào dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên cũng như rải vàng bạc khi đưa tiễn người mất về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhưng từ lâu việc đốt vàng mã trong Phật tử nói riêng và những người có tín ngưỡng nói chung càng ngày càng có chiều hướng phát triển. Tại sao việc làm phi chánh pháp này cứ tồn tại, đặc biệt trong dịp rằm tháng Bảy là ngày lễ trọng thể của Phật giáo, Phật tử lại đốt rất nhiều vàng mã để cúng gia tiên?
Nguyên nhân việc đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy khởi nguồn từ thời vua Đạt Tôn nhà Đường (762) bên Trung Hoa. Nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo về Phật giáo nên dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng: rằm tháng Bảy là ngày của Diêm vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng Bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng những thân nhân đã mất.
Vua Đạt Tôn đang muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ. Thế là nhân dân Trung Hoa lại được dịp thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để cúng cho người thân. Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm mất đi ý nghĩa. Cho nên dân chúng Trung Hoa thời kỳ đó đã nhận thức bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà sản xuất, buôn bán vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là người Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã.
Vì thế ,Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ, khi mọi người khấn vái, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên.
Chàng giả cách chết kia vờ lò dò ngồi dậy, điệu bộ lù đù như người chết đi sống lại, tuyên bố rằng nhờ cúng hình nhân thế mệnh nên mới được tha cho về nhân thế. Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mệnh được và thánh thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ. Từ đó về sau nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng. Chuyện này được ghi lại trong Trực ngôn cảnh giáo.
Dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn hóa nô dịch trong hơn 1.000 năm dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, đương nhiên phong tục, tập quán cũng rập theo đúng khuôn khổ như vậy, bất luận hay, dở, phải, trái, chính, tà. Thực tế đó đã trở thành bóng đen quá khứ của lịch sử. Trong giai đoạn đất nước phát triển, hội nhập với trào lưu văn minh của nhân loại, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam chúng ta cần phải nhận rõ hủ tục đốt, rải vàng mã hoàn toàn không phù hợp với đời sống xã hội hiện đại, qua đó thể hiện thái độ rõ ràng và đúng đắn đối với việc làm phi chánh pháp này. Điều đó cũng đồng nghĩa với những lợi ích thiết thực mà Phật giáo mang lại cho đời sống con người.