NSGN - Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỳ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; . . . Hơn nữa, này các Tỳ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỳ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỳ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, họ nuôi dưỡng chúng, cho chúng cơm áo, sinh chúng ra đời.
Nhưng này các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.
(Tăng chi bộ kinh, HT.Thích Minh Châu, chương 2, phẩm Tâm thăng bằng)
Thiền viện Amravati - Một ngày đặc biệt. Buổi sáng nay nhiều người đã tụ họp về đây dự một buổi lễ theo truyền thống, để hướng về cha mẹ - những người đã quá cố hay vẫn còn hiện tiền. Vào ngày này, chúng ta nghĩ đến kataññu kataveti, trong tiếng Pali có nghĩa là biết ơn. Biết ơn là một hành động thiện trong cuộc sống; để phát triển kataññu chúng ta chủ tâm nghĩ đến những điều tốt đẹp chúng ta có được trong cuộc đời. Vì thế vào ngày này, chúng ta đặc biệt nghĩ đến những hành động thiện của cha mẹ và quán tưởng đến họ. Chúng ta không nghĩ đến những sai lầm của họ; thay vào đó, chúng ta cố ý chỉ nghĩ đến những điều tốt đẹp. Và sự tử tế mà cha mẹ đã dành cho ta - dầu trong một số trường hợp, không phải lúc nào tâm rộng lượng cũng có mặt. Đây là một ngày trong năm mà chúng ta nghĩ đến cha mẹ với lòng biết ơn và tưởng nhớ đến những điều tốt đẹp mà cha mẹ đã dành cho ta.
Sống mà không có lòng biết ơn là một cuộc sống vô nghĩa. Nếu cuộc đời chỉ là một chuỗi của những lời oán than về sự bất công, về những thua thiệt mà ta đã gặp phải, nhưng lại không nhớ đến những may mắn đã từng đến với ta, thì chắc chắn là chúng ta sẽ bị trầm cảm - một căn bệnh thường gặp trong xã hội ngày nay. Khi rơi vào trạng thái trầm cảm, chúng ta không thể nhớ có điều gì tốt đẹp đã xảy ra cho ta. Điều đó đã ngưng đọng trong trí não, và ta khó thể nghĩ là mình sẽ lại cảm thấy hạnh phúc bao giờ: trái lại ta nghĩ là sự khốn khổ này sẽ không bao giờ chấm dứt.
Ở Tích Lan, cũng như toàn châu Á, kataññu kataveti là một nét văn hóa; nó rất được coi trọng và dung dưỡng. Có khả năng hỗ trợ và chăm sóc cha mẹ được coi là phước lớn trong đời. Điều này khá thú vị đối với những ai đến từ nền văn hóa phương Tây, vì những giá trị phương Tây hơi khác hơn thế.
Nhiều người trong chúng ta được có cuộc sống sung túc, nhưng dầu được sinh ra trong hoàn cảnh may mắn, chúng ta thường coi đó là lẽ đương nhiên. Chúng ta có nhiều đặc quyền, nhiều bổng lộc, và một cuộc sống tốt đẹp hơn rất nhiều những gì mà nhiều dân tộc trên thế giới mong ước có được. Có rất nhiều điều để ta hàm ân, nhiều thứ để ta cảm thấy biết ơn, khi ta được sống ở một nơi như Anh quốc.
Tôi nhớ lại khoảng thời gian khi tôi còn là đứa trẻ, và cách mà cha mẹ tôi đã cống hiến cả cuộc đời họ để chăm lo cho tôi và chị gái tôi. Lúc nhỏ, tôi chẳng hề quan tâm về điều đó chút nào. Là một đứa trẻ Mỹ, chúng tôi không hề nghĩ gì về điều này, chúng tôi xem việc làm đó của cha mẹ là đương nhiên. Chúng tôi không hề nhận thức được những gì họ đã hy sinh, những gì họ đã chịu đựng để chăm lo cho chúng tôi. Chỉ khi đã lớn khôn, đã phải hy sinh nhiều thứ cho con cái hay cho người khác thì chúng tôi mới biết hàm ơn và cảm thấy biết ơn (kataññu kataveti) cha mẹ.
Tôi lại nhớ về cha tôi. Trước thời kinh tế khủng hoảng năm 1929, cha tôi là một nghệ sĩ có nhiều triển vọng. Rồi cuộc khủng hoảng xảy ra năm 29 đã tước đi tất cả mọi thứ mà cha mẹ tôi sở hữu. Cha tôi vì thế phải đi bán giày để lo cho chúng tôi. Chị gái và tôi sinh ra trong thời kỳ khủng hoảng, nên ông phải lo cho chúng tôi rất nhiều. Rồi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, cha tôi đã quá tuổi gia nhập quân đội, nhưng ông rất muốn ủng hộ cuộc chiến đó, nên ông trở thành một công nhân đóng tàu ở New Seattle. Ông làm việc ở một bến tàu. Ông cũng không thích công việc đó mấy, nhưng đó là công việc tốt nhất mà ông có thể tìm được trong thời kỳ thế chiến thứ hai. Sau thế chiến, ông trở về với việc kinh doanh giày và trở thành quản lý của một cửa hàng bán lẻ. Sau này lớn lên, khi nói chuyện với ông, tôi mới biết ông cũng không thật sự yêu thích công việc đó, nhưng ông cảm thấy mình không còn trẻ để có thể tìm được công việc nào khác. Việc ông phải hy sinh những sở thích của mình chính là để chăm lo cho mẹ tôi, chị tôi và tôi.
Ngược lại, tôi có nhiều lựa chọn hơn, nhiều cơ hội tốt hơn. Thế hệ những người trẻ chúng tôi sau này có quá nhiều lựa chọn. Tuy nhiên cha mẹ tôi thì không có những cơ hội như thế; thế hệ của họ cực nhọc hơn và phải tự lo thân khi còn khá trẻ. Cả cha và mẹ tôi đều có khả năng nhưng họ không có cơ hội để phát triển vượt lên cách kiếm sống bình thường.
Khi tôi lên đại học, vào những năm 1950, môn học thời thượng lúc bấy giờ là triết học. Lúc đó những người trẻ tuổi đều có xu hướng đổ lỗi cho người mẹ về tất cả những thất bại, bất như ý trong cuộc đời của họ. Người mẹ là đối tượng bị nhắm vào, bị gán là nguyên nhân của mọi khổ đau của con cái họ. Lúc đó tôi chưa nhận thức được rằng khổ là điều không thể tránh trong kiếp nhân sinh. Dĩ nhiên mẹ tôi cũng không hoàn hảo. Bà đâu phải là người đã giác ngộ khi sanh tôi ra, nên hiển nhiên là có nhiều điều bà có thể làm tốt hơn. Nhưng nói chung, sự hy sinh, tận tụy, tình thương yêu, lo lắng luôn có mặt - tất cả chính là để làm cho cuộc sống của cha tôi, chị tôi và tôi được tốt đẹp, được hạnh phúc trong khả năng mà bà có thể mang đến. Mẹ tôi không đòi hỏi gì riêng cho bản thân. Vì thế, khi nghĩ lại những điều như thế, thì lòng biết ơn (kataññu) đối với cha mẹ, phát khởi trong tôi. Giờ tôi khó lòng nhớ lại bất cứ sai lầm nào của họ; những sai lầm mà khi còn trẻ, chúng luôn ám ảnh trong đầu tôi; giờ những lỗi lầm đó quá nhỏ bé khiến tôi khó thể nhớ lại điều gì.
Tuy nhiên, nếu chúng ta để mãnh lực của thói quen và hoàn cảnh lôi kéo, chúng ta ít nhiều gì cũng dính mắc với tất cả những thứ ta đã khắc ghi trong lòng - với những thói quen mà ta đã huân tập từ khi còn bé - những thứ này có thể chiếm lĩnh tâm thức ta ở tuổi già. Nhưng khi lớn lên, trưởng thành, ta nhận thức là ta có thể phát triển sự thiện xảo trong cách mà ta nghĩ về bản thân, và trong cách mà ta nghĩ về người khác.
Đức Phật khuyên chúng ta nên nhớ nghĩ đến những điều tốt đẹp mà cha mẹ, các vị thầy, thân hữu, hay bất cứ ai, đã làm cho ta; và phải chú tâm làm điều này - vun trồng nó, chủ tâm đem nó vào tâm thức - hơn là để nó xảy ra một cách tình cờ, ngẫu nhiên.
Khi trở thành một tu sĩ Phật giáo ở Thái Lan, tôi may mắn được gặp vị thầy, Luang Por Chah (Ajahn Chah), người đã trở thành chất xúc tác cho lòng biết ơn (kataññu) trong tôi trỗi dậy. Lúc đó tôi khoảng 33 hay 34 tuổi, và tôi phải thú nhận rằng tôi chưa hề có lòng hàm ân trong cuộc đời. Tôi vẫn còn chấp ngã nặng nề, lúc nào cũng là tôi muốn gì, tôi nghĩ gì. Tuy nhiên, sau một thời gian tu tập, khoảng năm thứ sáu trong cuộc đời tu của mình, tôi đã có được một trải nghiệm sâu sắc, một trải nghiệm được coi như là một trải nghiệm của lòng biết ơn (katannu katavedia).
Tôi đã xuất gia nhiều năm trước khi được gặp ngài Luang Por Chah. Tôi bị Phật giáo cuốn hút năm 21 tuổi, nên tôi rất ngưỡng mộ và tin tưởng vào Phật giáo, cũng như rất sốt sắng để học và thực hành Phật pháp. Nhưng tận cùng sâu thẳm vẫn là cái cảm giác của ngã chấp, của tôi tu học, tôi thực hành. Khi xuất gia, trong đầu tôi vẫn còn cầu mong: “Tôi muốn được giải thoát. Tôi muốn được giác ngộ”. Tôi không quan tâm đến người khác, đến cha mẹ, hay ngay cả đến ngài Luang Por Chah, là người đang giúp tôi tu học. Tôi cũng nghĩ là ngài rất tốt vì đã giúp đỡ tôi (xin ‘cảm ơn’), nhưng trong lòng tôi không có cảm giác hàm ân.
Thật là một ý nghĩ rất lạ kỳ, một loại suy nghĩ không tốt lành gì: Tôi nghĩ rằng đó là chuyện tự nhiên, rằng cuộc đời phải mang đến cho tôi những thứ đó - một thứ ngã mạn khó chấp nhận. Khi lớn lên trong sự đầy đủ của một gia đình thuộc giai cấp trung lưu, chúng tôi đã coi mọi thứ là chuyện đương nhiên. Cha mẹ tôi đã phải làm việc cực khổ để chúng tôi được sống thoải mái, nhưng tôi luôn nghĩ là họ chưa làm đủ bổn phận, và rằng đáng lý ra tôi phải được đầy đủ hơn nữa. Dầu đó không phải là những điều tôi nói ra, nhưng thái độ tôi tỏ rõ điều đó, rằng tôi xứng đáng được có tất cả mọi thứ: người khác phải chu cấp cho tôi tất cả; cha mẹ tôi phải mang đến cho tôi một cuộc sống tốt nhất, vì tôi muốn được như thế. Do đó, tôi nghĩ bổn phận của Thiền sư Ajahn Chah là phải dạy dỗ, dìu dắt tôi!
Đôi khi tôi có ý nghĩ rằng sự có mặt của tôi là một đại phước, một tài sản quý báu cho tu viện. Tôi không thực sự ý thức về điều đó, nhưng khi tôi bắt đầu quán tâm tôi có thể thấy được ý nghĩ này, và bắt đầu ý thức đến sự vô cảm này. Chúng ta có thể xem thường rất nhiều thứ và than thở là cuộc đời không tốt, không hoàn hảo, không nhiều lợi lộc như chúng ta tưởng; tệ hơn ta luôn nghĩ là kẻ khác được nhiều may mắn hơn ta.
Khi ở Thái Lan, tôi tu hành tinh tấn và kiên định trong cuộc sống xuất gia. Sau năm mùa an cư, vị Tăng sĩ không còn là Sa-di nữa mà có thể tự đi con đường riêng. Dầu tôi cảm thấy ở bên cạnh một vị thầy cũng tốt thôi nhưng tôi cũng muốn đi con đường riêng của mình, nên từ Đông bắc Thái tôi đến miền Trung Thái Lan. Rồi sau một mùa an cư tôi hành hương đến Ấn Độ. Đó là vào năm 1974, tôi quyết định đi như một vị Tỳ-kheo - đó là đi bộ từ nơi này đến nơi khác như một cách hành pháp của một vị tu sĩ. Một thí chủ đã cúng dường cho tôi vé bay từ Bangkok đến Calcutta, và ở Calcutta tôi vấn y, đi khất thực với bình bát - vì tôi không mang tiền - không một đồng xu. Đi khất thực ở Thái Lan thì dễ rồi, nhưng ở Ấn Độ, dường như việc đi lang thang với bình bát và không tiền bạc, có thể rất đáng sợ. Sự việc xảy ra là năm tháng mà tôi ở Ấn Độ quả là một cuộc phiêu lưu, và tôi có nhiều kỷ niệm đáng nhớ về khoảng thời gian đó. Cuộc sống của một tu sĩ khất thực ở Ấn Độ rất suôn sẻ. Dĩ nhiên phải như thế vì so với tất cả các quốc gia khác, đây là nơi Đức Phật đã từng sống và giáo huấn.
Trong khoảng thời gian này tôi bắt đầu nghĩ đến Luang Por Chah. Tâm tôi bắt đầu nhận thức về sự tử tế mà ngài đã dành cho tôi. Ngài đã nhận tôi làm đệ tử, chăm lo cho tôi, quan tâm đến tôi, giáo huấn tôi và giúp đỡ tôi gần như trong mọi hoàn cảnh. Ngài còn là tấm gương để tôi soi. Nếu bạn muốn làm một tu sĩ, hãy làm người tu sĩ như ngài. Ngài là một người hoàn hảo, là người tôi muốn noi theo, là người truyền cho tôi cảm hứng - và tôi phải thú nhận rằng không có bao nhiêu người có thể khiến tôi suy nghĩ như thế. Nhiều mẫu thần tượng ở Mỹ không hấp dẫn tôi chút nào như tài tử John Wayne hay Tổng thống Eisenhower hay Richard Nixon đều là những người tôi không muốn noi theo. Các ngôi sao điện ảnh hay thể thao đều được coi là rất quan trọng, nhưng cũng không có người nào có thể khiến tôi cảm phục.
Nhưng rồi tôi được gặp vị tu sĩ ấy. Ông là người nhỏ thó; tôi cao ngất ngưởng đối với ông. Khi chúng tôi ở cạnh nhau, điều này đôi khi làm tôi ngạc nhiên, vì sự có mặt của ông thì quá lớn. Không kể đến kích thước nhỏ bé của mình, ông dường như luôn to lớn hơn tôi. Uy lực, khí thế của người đàn ông nhỏ bé này thật đáng nể - tôi thực sự không thể coi ông là người nhỏ bé, tôi nghĩ ông là một đại nhân, và đó là vì tâm từ bi của ông. Ông là người có tâm từ bi vô lượng. Chính vì vậy mà người ta cảm thấy quý mến ông. Ông giống như một thỏi nam châm thu hút bạn đến gần với ông. Do đó những khi có thể tôi đều tìm đến thất của ông; tôi không bỏ cơ hội nào để được gần gũi, thân cận bên ông. Và tôi nhận thấy đó cũng là việc đa số các đệ tử thường làm đối với ông. Ông có rất nhiều đệ tử ở Thái Lan, cả người Thái và người Tây phương, do công hạnh từ bi của ông. Có lần tôi hỏi điều gì ở ông đã thu hút nhiều người tìm đến tu học với ông, và ông bảo, “Tôi cho đó là do thỏi nam châm của tôi”. Ông là người rất dễ gần; ông có đặc tính sôi nổi, nhiệt huyết, tỏa sáng, vì thế các đệ tử theo ông rất đông. Ông đã dùng ‘thỏi nam châm’ của mình để thu hút người ta, để ông có thể dạy cho họ Phật pháp. Đó là cách ông sử dụng cá tính dễ gần của mình: không phải cho bản ngã, mà là để cứu giúp người.
Tôi cảm thấy vô cùng hàm ân vì những việc làm như thế này - rằng ông đã bỏ thì giờ, công sức để chăm lo cho cư sĩ và những Tăng sĩ đầy nghiệp chướng như bản thân tôi, phải chịu đựng những người không ngừng tạo rắc rối như chúng tôi; chúng tôi luôn chấp ngã, luôn bám víu vào ái dục, nghi hoặc, ý kiến, quan điểm của mình. Cả ngày lẫn đêm bị vây chặt bởi những người không dừng phiền não, sân hận, người ta cần phải thực sự từ bi, và ông đã làm được như thế. Ông có thể đi đến một nơi thanh tịnh để sống bình an. Đó là điều tôi cũng muốn làm lúc đó. Tôi muốn được giác ngộ để có thể sống một cuộc sống hạnh phúc, bình an ở một nơi thanh bình, an vui. Tôi muốn tất cả mọi người trong tu viện phải hòa thuận, phải ăn ý và phải hòa nhịp với tôi để không có mâu thuẫn hay xung đột gì. Nhưng trong các tu viện Thái luôn có các vấn đề và chướng ngại. Luật tạng (Vinaya Pitaka - là bộ giới luật do Đức Phật chế ra cho hàng đệ tử xuất gia) bao gồm tất cả các tích truyện về những gì các vị tu sĩ đã làm khiến Đức Phật phải chế ra các điều luật hướng dẫn này. Một số giới luật về những điều rất tồi tệ mà các Tăng sĩ có thể phạm phải. Một số các vị tu sĩ ở bên cạnh Phật thật đáng trách.
Sau khi giác ngộ, lúc đầu Đức Phật đã nghĩ là giáo pháp của Ngài quá vi tế, khó ai có thể hiểu được, vì thế không ích lợi gì đem chúng đi truyền dạy. Sau đó, theo truyền thuyết, một trong các vị trời đã đến trước Ngài và nói, “Bạch Thế Tôn, hãy vì lợi ích của những người có ít bụi trong mắt mà dạy Pháp”. Đức Phật sau đó với tâm trí tuệ đã quán xét xem những ai có thể hiểu được Pháp mà Ngài sẽ dạy. Ngài nghĩ đến các vị thầy trước kia của mình, nhưng với thần lực của mình, Ngài biết rằng cả hai đều đã qua đời. Rồi Ngài nhớ đến năm người bạn đồng tu thuở xưa, những người đã từ bỏ Ngài. Với lòng từ bi, Ngài tìm đến năm người bạn này và giảng về Tứ diệu đế cho họ. Việc này cũng khiến tôi đầy hàm ân đối với Đức Phật. Thật tuyệt diệu: tôi đây - kẻ này, ở đây, trong thế kỷ này - được có cơ hội lắng nghe pháp, được biết chân pháp vẫn còn tồn tại.
Hơn nữa, có được một vị thầy như ngài Ajahn Chah, khiến tôi không phải chỉ tôn kính một vị tiên tri sống cách đây hơn 2.500 năm, mà thực sự là tôi như được thừa kế sự truyền thừa của chính Đức Phật. Có thể nhờ được viếng thăm các thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ mà lòng hàm ân (kataññu kataveti) trong tôi càng trở nên rất mãnh liệt. Nhận ra điều này và nghĩ đến Luang Por Chah ở Thái Lan, tôi nhớ lại mình đã suy nghĩ như thế nào trước đây: “Tôi đã hoàn tất năm năm tu học, giờ tôi phải ra đi. Tôi sẽ thực hiện vài cuộc phiêu lưu, làm tất cả những gì tôi muốn làm, thoát khỏi tầm kiểm soát của ông lão kia”. Tôi nhận ra rằng mình thực sự đã chạy trốn. Vào thời điểm đó có rất nhiều người Tây phương tìm đến tu viện của chúng tôi ở Thái Lan, nên tôi không muốn bị phiền hà vì họ. Tôi không muốn phải huấn luyện, thông dịch cho họ, tôi chỉ muốn sống cuộc đời của mình, không bị người khác quấy rầy. Do đó chuyện tôi ra đi là vì động cơ ích kỷ; hơn thế nữa, tôi đã bỏ Luang Por Chah lại với những thiền sinh Tây phương không biết tiếng Thái này. Lúc đó chỉ có tôi là có thể thông dịch cho họ vì Luang Por Chah không nói được tiếng Anh.
Khi tôi cảm nhận trạng thái đầy hàm ân (kataññu kataveti) này, tôi chỉ muốn trở lại Thái Lan để phục vụ Ajahn Chah hết mình. Làm sao tôi có thể trả ơn một vị thầy như thế?… Tôi không có tiền, mà ông cũng chẳng quan tâm gì đến thứ đó. Sau đó tôi nghĩ cách duy nhất mà tôi có thể làm để ông vui là trở thành một vị tu sĩ Phật giáo lỗi lạc, rồi trở về giúp đỡ ông; dầu ông muốn tôi làm gì, tôi cũng làm theo. Với dự tính đó, sau năm tháng ở Ấn Độ, tôi trở về lại Thái và dốc tâm phục vụ thầy. Đó là một sự cúng dường đầy hoan hỷ, không phải do ích kỷ, hẹp hòi, vì hành động đó phát xuất từ lòng biết ơn (kataññu), biết ơn về những điều tốt lành tôi đã thọ nhận từ thầy.
Từ đó trở đi, tôi nhận thấy việc hành thiền của mình bắt đầu có tiến bộ. Tâm ích kỷ sâu dày trong tôi bị vỡ nát: cái tôi muốn điều này điều nọ, muốn mọi người hòa thuận, cái tôi và tâm mong cầu tu tập để được một cuộc sống bình an, cái tôi không muốn có trách nhiệm với bất cứ điều gì mà chỉ muốn lo việc của riêng mình. Khi tôi buông được tất cả những thứ đó, mọi thứ dường như ổn định hơn. Những gì khi trước khó khăn, như định tâm chẳng hạn, trở nên dễ dàng hơn, và tôi cảm thấy cuộc sống vui tươi hơn. Tôi bắt đầu thích cuộc sống trong tu viện. Tôi không chỉ ngồi đó than thở, “Tôi bị quấy rầy, tôi không thích tu viện này - Tôi muốn chuyển đi nơi khác”, như tôi vẫn thường làm trước đây. Tôi cũng không thấy nhiều phiền não như trước kia: “Ông Tăng này làm phiền tôi quá, tôi không thể sống ở đây”, vân vân. Tâm phiền não này thường là chướng ngại trong việc tu tập của tôi, nhưng giờ bỗng nhiên những điều này, và những gì xảy ra trong tu viện không còn là những vấn đề quan trọng đối với tôi nữa.
Thực sự tôi đã nghĩ là khi trở về, tôi sẽ xin Ajahn Chah gửi tôi đến một tu viện nơi không có vị sư nào muốn tới, giống như một tu viện nhánh gần biên giới Campuchia. Nơi đó được gọi là chùa Bahn Suan Kluey, “chùa Làng Vườn Chuối”. Chùa ở trong rừng sâu, không có đường sá, một vùng còn rất hoang sơ của Thái Lan, dân chúng thì rất nghèo khổ. Khí hậu nơi đó thường rất nóng, cây cối thì còi cọc, tôi không thấy có nhiều chuối mọc quanh đây! Tóm lại đến đó cũng giống như bị đày qua Siberia. Nên khi trở về, tôi đã đề nghị Ajahn Chah gửi tôi đến đó.
Ông không làm thế; nhưng ông khuyên tôi nên đến Bahn Bung Wai, là một làng cách tu viện chính này khoảng sáu cây số. Do đó đến năm 1975 chúng tôi lập được chùa Pah Nanachat, “Lâm Viên Viện Quốc Tế - The International Forest Monastery” gần làng này. Trước khi chúng tôi đến thì nơi đó chỉ là một khu giữ cốt, nơi hỏa táng của làng, và người ta tin là khu rừng đó toàn là ma. Vì thế dân làng thường đến hỏi, “Có ổn không?” Lúc đầu chúng tôi không thực sự biết nơi này có ý nghĩa gì đối với dân làng. Nhưng rồi tôi nhận ra mình đang ở ngay tại chỗ mà những con ma tinh quái nhất trong khu rừng đang sống, vì thế vị trưởng làng thường đến thăm hỏi, “Sư ngủ có yên không? Có thấy gì khác lạ?” Tôi thực sự chẳng thấy gì cả, mấy con ma đó chẳng quấy phá gì tôi. Nhưng kinh nghiệm sống ở đó đã giúp tôi chứng tỏ rằng mình thực sự sống cuộc đời của một Tăng sĩ, và đó là nhờ vào lòng biết ơn (kataññu).
Điều đó cũng giống như khi tôi đến Anh quốc năm 1977. Khi Luang Por Chah yêu cầu tôi đến đây, tôi quyết định nghe theo, chứ không chỉ làm theo cảm tính hay trạng thái riêng tư nào của tôi - vì năm đầu tiên ở đây tôi cảm thấy rất bực bội, chỉ muốn quay trở lại Thái Lan ngay. Nhưng vì tình cảm biết ơn này mà tôi không hành động theo tánh bốc đồng của mình. Tình cảm này khiến tôi cảm thấy có trách nhiệm, phải phục vụ, nhưng không quá nặng nề, áp lực. Kataññu có nghĩa là tôi ở lại đây không vì cảm thấy trách nhiệm - là điều khiến cuộc sống mất vui - mà do tâm nguyện muốn phục vụ, muốn hy sinh. Đây là việc thiện lành đáng làm. Nhờ thế chúng tôi có thể cảm nhận được lòng biết ơn (kataññu) đối với những vị thầy như Luang Por Chah.
Nói về lòng biết ơn khiến tôi nhớ lại một câu chuyện khá lý thú. Vị Tăng hướng dẫn tôi đến gặp Luang Por Chah cùng tuổi với tôi; thầy đã từng ở trong Hải quân Thái, còn tôi ở trong Hải quân Mỹ trong chiến tranh Hàn Quốc. Thầy có thể nói thứ tiếng Anh pha tạp, đã từng tu theo tudong (khổ hạnh) - đã lang thang từ tỉnh Ubon, nơi Ajahn Chah từng sống, đến Nong Khai, nơi tôi đang có mặt. Đó là năm đầu tiên của tôi với tư cách là một Sa-di, và thầy là vị sư Thái đầu tiên tôi gặp biết nói tiếng Anh, nên tôi thật vui mừng khi có người để trò chuyện. Thầy cũng rất nghiêm trì giới luật, giữ kỹ mọi luật lệ trong Luật tạng Vinaya. Thầy thọ thực ngay trong bình bát khất thực, mặc y màu nâu đậm của chốn núi rừng, trong khi ở tu viện nơi tôi sống, quý Tăng sĩ mặc y màu vàng cam; thầy thực sự gây ấn tượng như là một vị Tăng sĩ mẫu mực. Thầy khuyên tôi nên đến sống nơi ngài Ajahn Chah, để sau khi thọ giới Tỳ-kheo, vị pháp chủ sẽ cho phép tôi theo thầy đến ở với ngài Luang Por Chah. Nhưng trên đường đi tôi bắt đầu thấy bực bội với vị thầy này - người té ra rất khó chịu. Thầy không ngừng than phiền về mọi thứ, chê trách các vị sư khác, cho rằng Tăng chúng nơi thầy ở là tốt hơn cả. Tôi không thể chịu được tính cao ngạo, hống hách của thầy, và cầu mong là ngài Ajahn Chah không giống như thế. Tôi hoang mang không biết mình đang rước thứ gì vào thân.
Khi đến Wat Pah Pong, tôi thở phào khi thấy ngài Ajahn Chah không giống như thế. Một năm sau, vị thầy đó, tên là Sommai, đã hoàn tục và trở thành một kẻ nát rượu. Chính cuộc sống nơi tu viện đã giúp thầy xa rời rượu chè, vì thế sau khi hoàn tục thầy quay lại với rượu, trở nên một người rất tệ hại, gây bao tai tiếng tại bang Ubon. Thầy trở thành người vô gia cư, một hoàn cảnh rất tệ hại, khiến tôi cảm thấy khinh bỉ, chán ghét thầy. Một chiều kia khi trao đổi với ngài Ajahn Chah về chuyện này, ngài đã nói: “Con phải luôn có lòng biết ơn (kataññu) đối với Sommai, vì chính thầy ấy đã mang con đến đây. Dầu thầy ấy có hành động tệ hại đến đâu, trở thành bệ rạc đến thế nào, con cũng phải đối xử với thầy ấy như là một minh sư, và phải tỏ lòng biết ơn. Con có thể là một trong những điều thực sự tốt lành đã xảy đến trong cuộc đời thầy ấy, một điều mà thầy ấy có thể tự hào; nếu con tiếp tục nhắc nhở thầy ấy về điều này - một cách khéo léo, không phải với cách làm thầy ái ngại - thì rồi thầy ấy dần dần có thể sửa đổi”. Vì thế Luang Por Chah khuyến khích tôi đi tìm Sommai, chuyện trò thân mật với thầy ấy, và bày tỏ lòng biết ơn với thầy ấy vì đã mang tôi đến với ngài Ajahn Chah. Đó đúng là một việc tốt đẹp nên làm. Khinh bỉ người đó và nói những lời như: “Thầy làm tôi thất vọng quá. Thầy thường chê trách người khác và nghĩ mình là tốt hơn cả, vậy mà giờ nhìn thầy kìa”, thật là việc dễ làm. Ta có thể tức giận và thất vọng với một người nào đó vì họ đã không sống đúng như chúng ta mong mỏi. Nhưng điều mà Luang Por Chah muốn dạy ta là: “Đừng làm như thế, chỉ tốn thời gian, gây thêm tổn hại, mà hãy hành động thiện lành vì lòng từ bi”. Tôi có gặp lại Sommai hồi đầu năm này, vẫn thảm thương như bao giờ; tôi không thấy thầy ấy có gì thay đổi. Tuy nhiên, bất cứ khi nào thầy nhìn thấy tôi, dường như điều đó tạo ảnh hưởng tốt cho thầy. Có lẽ thầy nhớ lại rằng thầy là người đã giúp tôi đến tu học với Luang Por Chah - và đó là nguồn hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời thầy. Ta có thể cảm thấy rất vui khi có thể đem lại chút hạnh phúc cho một người rất bất hạnh.
Tương tự, tôi nghĩ tưởng đến các vị thầy mà tôi không được biết cụ thể, thí dụ như Alan Watts, tác giả của quyển “The Way of Zen” (Phương cách thiền), là một trong những quyển sách Phật giáo tôi đọc sớm nhất. Quyển sách đã tạo ấn tượng mạnh cho tôi. Vào thời gian đó, có được cái gì về Phật giáo để đọc là một niềm vui, và tôi thường đọc đi, đọc lại quyển sách đó nhiều lần. Nhưng sau đó, tôi được biết ông cũng thay đổi. Tôi được gặp ông, khi tôi tham dự một số buổi nói chuyện của ông tại San Francisco, nhưng, dầu ông là một nhà hùng biện, còn tôi, lúc đó đang ở trong giai đoạn chuyên tu, ông cũng không thuyết phục được tôi.
Vì thế, giờ nhìn lại, tôi cảm thấy hàm ân (kataññu) đối với những vị như Alan Watts, các tác giả, quý thầy, những người đã khuyến khích, giúp đỡ tôi khi tôi cần đến. Họ đã làm gì sau đó, hoặc họ có sống như tôi mong mỏi hay không lại là chuyện khác. Có lòng từ bi và lòng biết ơn (kataññu) là không được chỉ trích, hay kết tội, hoặc chăm bẳm vào những điều không tốt đẹp của người; mà đó là khả năng chọn lọc và nhớ nghĩ đến những điều thiện lành họ đã làm.
Có được một ngày như thế này, khi chúng ta chủ tâm nghĩ đến cha mẹ với lòng biết ơn, là một cách để mang niềm hoan hỷ và những tình cảm tích cực đến trong cuộc đời ta. Buổi sáng nay, quý vị nguyện thọ Năm giới và dâng cúng thực phẩm cho Tăng đoàn như một cách để nghĩ đến cha mẹ với lòng biết ơn là một cử chỉ đẹp. Ở những lúc như thế này, ta cũng nên nghĩ đến việc biểu hiện lòng biết ơn (kataññu) đối với đất nước mà ta đang sinh sống, vì ta thường xem đó là việc đương nhiên. Chúng ta có thể nghĩ đến những phúc lợi, những điều tốt đẹp mà đất nước, xã hội tạo ra cho chúng ta, hơn là chú trọng đến những cái chưa tốt, những điều ta không thích… Chúng ta cần phát triển lòng biết ơn (kataññu), dầu tư tưởng hiện đại không khuyến khích ta làm thế. Đó không phải là yêu nước mù quáng hay có tính tự hào dân tộc quá đáng, nhưng đó là sự hàm ân và biểu hiện của lòng biết ơn về những cơ hội và những điều tốt đẹp mà ta được hưởng khi sống trong xã hội. Cách suy nghĩ như thế điểm thêm nét vui tươi cho cuộc đời thay vì nghĩ là đất nước này, xã hội này nợ tôi bao nhiêu thứ: “Tôi đáng được hơn thế nữa. Họ chưa đáp ứng cho tôi đầy đủ”. Cách suy nghĩ đó là của tâm lệ thuộc, đúng không?
Lần đầu tiên tôi để ý đến điều đó khi tôi ở trong Hải quân Mỹ trên tàu tiếp tế, thường đi lui tới giữa các căn cứ quân sự Nhật và Phi. Tôi rất thích làm lính biển, được ở ngoài biển khơi, nên tôi không có chi để phàn nàn. Tôi cảm thấy Á châu thật quyến rũ khi đến các nước Nhật, Hong Kong và Phi. Tôi nhớ lần đầu tiên đến Hong Kong vào năm 1955, tàu vào bến cảng, tôi rất hào hứng về việc được đi thăm thành phố này. Tôi cố rủ ai đó đi chung, nhưng họ từ chối, “Ý, tôi không thích Hong Kong đâu”. Tôi thì quá hứng thú nhưng không tìm được ai để đi với mình. Những người khác có xuống tàu thì cũng chỉ để đi đến lầu xanh, quán bar - họ chỉ nhìn thấy Hong Kong như thế. Đúng là một trạng thái tâm tiêu cực phải không? Quân lính Mỹ những ngày ấy không được sáng suốt lắm. Nếu nơi nào không phải là Des Moines, Iowa, thì nơi ấy không tốt. Họ không tìm thấy vẻ đẹp ở những nơi xa lạ, họ chỉ thấy đó không phải là Des Moines, Iowa hay Birmingham, Alabama.
Tôi phục vụ bốn năm trong Hải quân, suốt khoảng thời gian đó tôi phải luôn nghe những lời ta thán. Những người lính trên tàu kêu ca đủ thứ chuyện. Thực ra thời gian đó, ở trong quân đội chúng tôi được biết bao quyền lợi - thí dụ như những cơ hội về giáo dục. Nhờ đã phục vụ trong quân đội, tôi được học bổng trong bốn năm đại học, cũng như rất nhiều thứ khác mà giờ tôi cảm thấy rất hàm ân. Mặc dầu vậy, thái độ của mọi người là cố vơ vét càng nhiều càng tốt từ quân đội, và sử dụng chúng cho mục đích riêng tư; ta thán về tất cả mọi thứ và luồn lách bằng mọi cách. Ngay cả điều họ đang làm là phạm pháp, vô đạo đức, cũng được - miễn là không bị bắt gặp tại trận. Và thực tại đó là trong một xã hội có thể cung ứng tất cả cho họ! Cuộc sống được đảm bảo, nhưng thái độ của họ là: “Cho tôi, cho tôi, cho tôi. Tôi được lợi gì trong đó?” Kết quả là nó trở thành một xã hội đầy tiêu cực, trong đó mọi người ta thán, kêu ca không dứt.
Nên hôm nay là ngày để ta phát khởi kataññu (lòng biết ơn). Đừng nghĩ rằng đó chỉ là một ngày để ta có thể sống tình cảm. Kataññu là một phương cách tu tập ta phải phát triển trong cuộc sống hàng ngày, vì nó mở rộng trái tim ta, đem hoan hỷ đến trong cuộc sống của ta. Và chúng ta cần niềm hoan hỷ đó. Nó nuôi dưỡng ta, nó cần thiết cho sự phát triển tâm linh của ta. Hỷ là một trong những yếu tố giác ngộ. Cuộc sống không có niềm hoan hỷ sẽ rất đáng sợ - u ám, tẻ nhạt và buồn chán. Nên ngày hôm nay là ngày để dành cho những hồi tưởng vui tươi.
Ajahn Sumedho - Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ từ Gratitude to Parents, www.amaravati.org)