Nghệ thuật thoát ra từ gian nan Người dân nơi đây vẫn tự hào rằng những viên đá ong của vùng luôn có một vẻ đẹp bí ẩn, vững chắc. Sắc vàng của đá ong luôn tạo cho con người ta cảm giác ấm cúng, thân quen mà không lạnh lẽo như các loại đá khác. Vì thế mà từ xa xưa, ông cha đã chọn đá ong xây dựng nhà ở và các công trình kiến trúc khác. Đang tìm hỏi về những người thợ chuyên chế tác đá ong, chúng tôi bắt gặp ngay bên đường một người đàn ông tay cầm thuổng đang hì hục giữa hai khối đá ong khổng lồ. Anh là Trần Văn Nghiêm, người dân ở đây gọi anh là Chắt nghệ nhân. Cái nghề thổ mộc này gắn bó với anh từ thời bé. Khi chúng tôi hỏi về những tác phẩm với những con vật như hổ, báo, voi, sư tử..., với đường nét điêu khắc như thổi hồn vào đá. Chắt nghệ nhân xua tay, cười khà khà nói: "Với cái nghề đục đẽo các con vật này tôi làm được hơn 10 năm rồi. Họ đặt gì thì tôi làm nấy, con nào cũng làm được, cứ lấy thuổng xẻ đá lớn ra theo khổ rồi lấy dao đẽo; cứ thế mà đẽo chẳng cần phải vẽ hay gọi là thiết kế thiết gì cả. Tay và dao là hai thứ làm nên những con vật ấy cả". Anh kể: "Nghề này lắm công phu và bận túi bụi. Để tạo ra sản phẩm là các con vật, chum, chậu cảnh bằng đá ong, mình phải trực tiếp làm. Kỉ niệm mà tôi nhớ nhất: Có một khách hàng đặt mua một đàn voi với 2 con voi to, 3 con voi cỡ vừa và nhỏ với giá hàng trăm triệu đồng mà họ yêu cầu làm trong vòng một tháng. Để giao hàng đợt đó, mình phải huy động thêm người giúp việc và vận dụng hết khả năng tay nghề mới kịp hoàn thành đúng tiến độ để giao hàng cho khách. Còn những khách hàng đặt mua các con vật nằm trong bộ 12 con giáp thì nhiều lắm". Đang kể, giọng Chắt nghệ nhân bỗng hào hứng: "Kể cũng lạ, ngày xưa đá ong bán rẻ lắm, chỉ có nhà nghèo mới xây nhà bằng đá loại này thì nay chỉ có những người giàu mới dám mua sử dụng. Tại cơ sở sản xuất ngoài các con vật như hổ, voi, sư tử có mức giá từ vài trăm nghìn đến cả trăm triệu mỗi con, tuỳ thuộc kích thước, kiểu dáng. Khách hàng khắp trong Nam ngoài Bắc đặt mua những loại chậu cảnh, chân hương để xuất khẩu cũng nhiều". Chắt nghệ nhân cũng cho biết, mặc dù nguồn nguyên liệu đá có sẵn trên địa bàn nhưng không phải lúc nào cũng có thể đáp ứng được yêu cầu của khách do không phải lúc nào cũng có khổ đá lớn như vậy để làm. Để lại dấu ấn cho con cháu Người thứ hai chúng tôi tìm gặp là anh Nguyễn Văn Mười, (trú tại thôn Yên Mỹ, xã Bình Yên, huyện Thạch Thất, Hà Nội). Trái ngược với Chắt nghệ nhân, anh Mười chuyên nhận làm các công trình xây tường cổng, giếng đá cho các làng cổ, chùa chiền và các ngôi biệt thự trên toàn quốc. Anh Mười cho biết, hơn chục năm làm nghề, anh đã từng đi khắp từ Bắc vào Nam, làm không biết bao nhiêu công trình bằng đá ong phục vụ yêu cầu của khách và cũng từ đó người ta gọi anh là nghệ nhân lúc nào mà anh chẳng hay. Thế nhưng, trong anh luôn tâm niệm cần phải làm cái gì đó để lại dấu ấn cho quê hương, con cháu mai này noi theo. Thế rồi cơ hội đó cũng đến, cách đây khoảng 2 tháng, các cụ trong thôn Yên Mỹ có sang nhà và đặt vấn đề mời anh làm kiến trúc sư xây dựng cổng chùa Đại Lợi của thôn bằng đá ong với kinh phí khoảng 150 triệu đồng (giá thị trường khoảng từ 200 đến 250 triệu đồng). Vừa ngắm nhìn công trình, anh Mười vừa hướng dẫn chúng tôi, để làm được chiếc cổng bằng đá này ngoài bộ óc tính toán về kĩ thuật kết cấu, cần phải có hoa tay và trình độ. Bởi rất khó tạo ra các hoạ tiết, hình cong từ đá. Tiếp đến phải tính toán sao cho các lớp đá chồng lên thẳng tắp không cong, lệch so với các đường chỉ lúc đó mới tạo ra dáng vẻ cổ kính, hoành tráng của công trình bằng đá ong được.
Tâm sự về nghề, anh Mười bộc bạch: “Tất cả công trình làm từ trước đến giờ chỉ có mình tôi cặm cụi làm cùng với mấy người giúp việc phụ đỡ. Mặc dù trong làng cũng có mấy người làm nghề nhưng cũng chỉ dừng ở mức vọc vạch, đẽo đá bán làm gạch xây nhà chứ để làm được đồ cao cấp, mang tính nghệ thuật cao rất hiếm... Nghề làm đá rất lạ, vì không có trường lớp nào đào tạo, lại cũng không phải là nghề gia truyền mà điều quan trọng nhất để làm được nghề này thì ngoài đôi bàn tay vàng cần phải có bộ óc sáng tạo nên các hình thù, kiểu dáng công trình, do vậy rất khó kiếm được người khác thay thế”. Đề cập tới nguồn nguyên liệu tạo lên đá ong, anh Mười cho biết, không biết đá ong có từ bao giờ, chỉ biết do thiên nhiên ban tặng và có sẵn trên địa bàn do các mảnh sành, gạch vỡ tạo nên thành từng tầng từng lớp do vậy khi khai thác chỉ cần tách vỉa chứ không phải tác động lớn. Để có đá, người khai thác phải mua diện tích đất đồi của dân, sau đó thuê thợ khai thác đào sâu từ 80 phân đến 1mét sẽ đến đá. Bề dày của đá lấy được từ 1m - 1,5m là đá có thể sử dụng được. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào những người có kinh nghiệm, làm lâu trong nghề mới có thể biết được đâu là đá đạt chuẩn (đá phải đạt độ dẻo, dai) để chế tác ra các sản phẩm mang chất lượng, có tính nghệ thuật cao. Anh Mười trầm ngâm: “Việc khai thác đá ong mãi rồi cũng hết, cái còn lại là những di sản văn hoá không bao giờ mất được, đó là những công trình, con vật bằng đá ong sẽ mãi trường tồn cùng thời gian”. |