GN - Trong lịch sử nhân loại, tôn giáo và xã hội luôn là một thực tại bất ly. Hầu như không một xã hội nào thiếu sự hiện diện của tôn giáo.
Kỷ niệm 30 năm thành lập GHPGVN và đón nhận Huân chương của Nhà nước trao tặng
Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, tôn giáo luôn hiện diện trong lòng xã hội. Ngược lại, dù có tiến bộ văn minh đến đâu, xã hội luôn có sự đồng hành của tôn giáo. Không có lịch sử của dân tộc nào lại không cưu mang lịch sử tôn giáo của họ; bởi lẽ, khác với mọi hệ thống chính trị xã hội, tôn giáo là một nhu cầu muôn thuở của con người. Nói theo ngôn ngữ của các triết gia1, đặc tính của một nền văn minh là sự biểu lộ về tôn giáo của nó, và văn minh được quyết định bởi phẩm chất tôn giáo mà nó dựa vào. Nói khác đi, yếu tố tôn giáo có một vai trò vô cùng quan trọng đến sự phồn vinh hay thất bại của một xã hội. Trong một giai đoạn nào đó mà xã hội phồn vinh, nhân dân hạnh phúc có nghĩa là mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc đã được phát triển một cách hài hòa, tốt đẹp. Ngược lại, trong một giai đoạn nào đó mà xã hội bộc lộ những mâu thuẫn giữa hai thành tố này, điều ấy có thể do hai lý do: Một là tôn giáo và dân tộc chưa vận dụng được sức mạnh của chính mình; hai là vì triết lý tôn giáo đó không còn đáp ứng được khát vọng sống và nhu cầu tâm linh của dân tộc ấy.
Lý do thứ nhất là vì chính quyền và tôn giáo đặt quyền lợi cá nhân và tổ chức trên quyền lợi xã hội. Điều này đưa đến sự tranh giành quyền lực giữa hai tầng lớp này. Đây là nguyên nhân đưa đến sự phân chia bốn giai cấp trong xã hội Ấn Độ cổ đại (cũng như một số quốc gia ngày nay): Bà-la-môn (Brahmana), Sát-đế-lợi (Khattiya), Thương gia (Vessas) và Nô lệ (Sudras). Cũng cần lưu ý rằng sự xung đột tranh giành quyền lực, ngôi vị và ảnh hưởng xã hội thường xảy ra giữa hai giai cấp Bà-la-môn (tu sĩ các tôn giáo) và Sát-đế-lợi (lãnh đạo xã hội) của Ấn Độ cổ đại và dường như ngay cả trong những quốc gia trong thế giới văn minh ngày nay.2
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến sự thờ ơ đối với tôn giáo có thể tìm thấy trong lịch sử của một số nước ở phương Tây cổ đại và cận đại (cũng như thế giới ngày nay). Ví dụ, khi văn minh Hy Lạp - La Mã biểu hiện sự yếu kém của nó trong việc thích nghi với tiến trình mở mang hiểu biết của nhân loại lập tức nó bị Thiên Chúa giáo tiếp quản. Tương tự như thế, khi giới trí thức châu Âu trở nên thất vọng với các giá trị của đạo Thiên Chúa, sự thất vọng ấy đã khiến họ quay lưng với học thuyết tôn giáo chính trị để rồi say sưa trong tiến bộ của khoa học kỹ thuật3. Do vậy, tìm hiểu vai trò xã hội của một tôn giáo chính là nghiên cứu tầm quan trọng của tôn giáo ấy trong sự tồn tại và phát triển của một dân tộc; đồng thời xem triết lý của tôn giáo ấy còn thích nghi và phù hợp văn hóa dân tộc ấy trong thời đại ngày nay hay không!
Nguồn trí tuệ từ sự giác ngộ của Đức Phật Thích Ca, được con người xưa và nay biết đến với tên gọi là đạo Phật (Buddhism), đã cống hiến cho nhân loại một nghệ thuật sống. Trên 26 thế kỷ tồn tại và phát triển, những lời dạy về từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha bắt nguồn từ sự chứng ngộ ấy đã chứng tỏ được giá trị đích thực của nó đối với cuộc đời. Bởi lẽ, giá trị cao nhất của các hệ triết lý, tư tưởng hay tôn giáo chủ yếu được đo lường bằng hiệu quả hạnh phúc, như Aristotle, một trong những triết gia vĩ đại phương Tây, đã quan niệm “Mục tiêu của cuộc đời không phải là cái hay, cái đẹp mà chính là hạnh phúc”4. Đây chính là mục đích ra đời của Đức Phật: “Ta ra đời là vì lợi ích và an lạc cho số đông, cho chư thiên và loài người”5 và “Xưa và nay Ta chỉ nói khổ và con đường diệt khổ”6.
Lời tuyên bố này của Đức Phật không phải là lý thuyết suông, cũng không phải là những mỹ từ để làm đẹp đạo Phật, mà đã được chính Đức Phật “nói và làm” trong suốt cuộc đời của Ngài7.
Sau khi hoàn tất sứ mệnh cao cả của mình, Đức Phật đã trao lại cho nhân loại một kho tàng trí tuệ để vận dụng vào trong cuộc sống đầy vô thường, bất trắc này. Hiệu quả của con đường sống tỉnh thức này đã và đang tác động trực tiếp vào đời sống của các xã hội mà nó du nhập. Đặc biệt, sự phát triển của đạo Phật mỗi ngày mỗi lớn mạnh khắp các nước Âu Mỹ đã chứng tỏ được giá trị nhân bản, nhân văn và thiết thực mà con người ở những vùng đất văn minh này đang tìm kiếm qua lời phát biểu của triết gia nổi tiếng người Đức, Nietzche: “Phật giáo là tôn giáo để đạt đến mục tiêu sau cùng cho một nền văn minh đã mòn mỏi” và “ Phật giáo đang phát triển một cách thầm lặng trong toàn bộ lãnh thổ châu Âu”8.
Cần lưu ý rằng, để được những xã hội văn minh như thế chấp nhận, có lẽ giáo lý Phật giáo đã đáp ứng được những mong ước, khát khao của con người ở vùng đất ấy. Quan trọng hơn nữa, trong quá trình hội nhập của mình, Phật giáo chưa hề tạo ra bất cứ sự xung đột nào với quyền lợi của con người, xã hội, tôn giáo ở những quốc gia vốn đã có một sự ảnh hưởng sâu sắc và lâu đời từ các hệ triết lý và tôn giáo phương Tây. Theo thiển ý của người viết, sở dĩ đạo Phật đạt được những thành quả như thế, bởi vì, nét đặc thù về triết lý xã hội của đạo Phật nằm ở chỗ Phật giáo không tồn tại vì cái tự ngã hay cái danh xưng của mình, mà đến với thế giới này là vì hạnh phúc và an lạc cho mọi loài chúng sanh. Nói theo ngôn ngữ của ngài W. Rahula:
“Có gì trong một cái tên,
Bạn gọi nó là hoa hồng?
Dù được gọi bất cứ tên gì,
Hoa hồng vẫn đẹp và vẫn ngát hương”9.
Ai cũng có khát vọng về cái đẹp và hưởng thụ tinh hoa của nó. Đạo Phật đã đến với thế giới này, đã làm đẹp cuộc đời và phụng sự cho nhân thế. Vì thế, con người ở mọi nơi đều chấp nhận đạo Phật. Với tinh thần như thế, Phật giáo đã truyền bá vào Việt Nam. Qua hơn 2.000 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo đã hòa quyện vào trong nguồn sống của người Việt, trở thành một nhân tố không thể thiếu đối với nền văn hóa và văn minh Việt Nam. Trong mọi hoàn cảnh thăng trầm của lịch sử, Phật giáo luôn song hành cùng dân tộc. Giáo lý từ bi, trí tuệ, vô ngã vị tha của đạo Phật đã hòa quyện với tinh thần nhân bản, nhân văn của truyền thống văn hóa Việt Nam và đã tạo nên một sức sống mới cho dân tộc Việt Nam. Bên cạnh ấy, trong quá trình giao thoa tương tác, văn hóa Việt Nam đã bản địa hóa Phật giáo thành Phật giáo Việt Nam. Theo ý kiến của một số sử gia, thật khó hình dung được văn hóa Việt Nam nếu tách rời Phật giáo Việt Nam; ngược lại, sẽ không có nhiều ý nghĩa cho sự tồn tại của mình khi Phật giáo đứng ngoài dòng chảy của dân tộc Việt.
Từ đó, đối với Phật giáo, cái an nguy của dân tộc chính là an nguy của Phật giáo; hạnh phúc của người dân là mục đích mà Phật giáo hướng đến. Những tiêu chí này đã được những người Phật tử Việt Nam vận dụng một cách khéo léo và thiện xảo trong cuộc sống thường nhật. Do vậy, khi đất nước cần, người Phật tử sẵn sàng hóa thân trong mọi hình thức để gánh vác việc non sông. Khi đất nước loạn ly, Phật tử Việt Nam sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng tư để lo việc nước nhà. Không biết bao nhiêu ngôi chùa đã trở thành những trung tâm văn hóa giáo dục của làng xã! Không biết bao nhiêu cơ sở của Phật giáo đã trở thành hậu cứ để cưu mang, nuôi dưỡng các anh hùng, chiến sĩ vì nước vì dân!
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và chư tôn đức Phật giáo Nam tông Khmer tỉnh Sóc Trăng
Tu sĩ Phật giáo không phải là những con người chán đời, yếm thế, vào chùa để tìm chốn bình yên cho tâm hồn, để quên đi hết những nỗi đau của nhân thế như nhiều người đã ngộ nhận. Sự cống hiến công sức và trí tuệ của giới tu sĩ Phật giáo bàng bạc khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống đã phản ánh được giá trị xã hội của đạo Phật. Hình ảnh Quốc sư Pháp Thuận làm “người đưa đò” thay triều đình tiếp sứ Trung Hoa đã khiến cho ngoại bang kính nể, nói lên tinh thần phục vụ quê hương, xứ sở một cách tích cực và vô vụ lợi của Phật giáo.
Chắc chắn rằng lịch sử Việt Nam sẽ không thể quên được vai trò của Thiền sư Vạn Hạnh trong việc nuôi dạy Lý Công Uẩn, vị vua không chỉ khai sinh vương triều nhà Lý, xây dựng một triều đại kéo dài hơn hai trăm năm, mà còn tạo nên những chiến công hiển hách, đại thắng quân Tống, viết nên một trang sử độc lập, tự cường của dân tộc Việt. Đã là người Việt, không ai có thể quên được Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội trong năm 2010 với mục đích ghi nhớ công ơn to lớn của tiền nhân, đồng thời phát huy tinh thần và trí tuệ ấy để xây dựng quê hương Việt Nam trong thời đại mới.
Người Phật tử không chỉ đến với đạo Phật để tìm kiếm sự giải thoát khỏi khổ đau cho tự thân, giáo lý Phật giáo không chỉ dạy người tu hành để mong sanh về cảnh giới cao đẹp trong tương lai. Với tôn chỉ “Tịnh độ chỉ tại mục tiền”,“Phật pháp bất ly thế gian giác”, Phật tử Việt Nam đã dấn thân phụng sự xã hội trong mọi lãnh vực của cuộc sống để hiện thực hóa phương châm “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Thiền sư Tuệ Tĩnh là một trong những người con Phật tiêu biểu đã sống và hành động như thế. Cuộc đời và đạo nghiệp của Tuệ Tĩnh đã trở nên bất tử không chỉ riêng với giới Phật giáo, mà của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, nhân dân Việt Nam ghi nhớ và trân trọng Tuệ Tĩnh không đơn giản vì ngài là một lương y khám bệnh bốc thuốc cứu đời, không chỉ vì ngài đã để lại cho ngành y học dân tộc những kiến thức, kinh nghiệm, những cẩm nang y học quý báu. Các thế hệ đời sau mãi mãi nhớ ngài bởi tấm lòng cao đẹp, sự tận tụy, đức hy sinh vì hạnh phúc và an lạc của quần chúng!
Theo dòng sử Việt, không biết bao nhiêu “ông đưa đò Pháp Thuận” ngày đêm lặng lẽ đưa bao thế hệ Việt Nam vượt qua mọi thử thách của cuộc đời để bước lên bờ vinh quang! Không biết bao nhiêu “Vạn Hạnh thiền sư” thầm lặng đóng góp công công sức và trí tuệ của mình trong việc nuôi dưỡng và dạy dỗ các thế hệ “Lý Công Uẩn” cho đất nước! Không biết bao nhiêu cuộc đời khổ đau nhẹ bớt bi thương, tìm lại nụ cười khi được sưởi ấm và chăm sóc bởi “những bàn tay và tấm lòng từ ái của Tuệ Tĩnh”!
Chắc chắn rằng sự đóng góp của Phật giáo cho quê hương, xứ sở không chỉ gói gọn trong các lãnh vực vừa nêu, mà hình bóng người Phật tử đã và đang hiện diện trong mọi ngõ ngách của cuộc sống để chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ với những người máu mủ thân yêu. Có thể nói rằng ở đâu có người Việt, ở đó có đạo Phật. Có lẽ khó có một công trình nghiên cứu nào có thể đánh giá hết vị trí và ảnh hưởng của đạo Phật đối với mảnh đất thân yêu này! Tuy nhiên, những gì mà giới Phật giáo đã cống hiến cho Tổ quốc Việt Nam đã và đang được mọi người thật sự ghi nhận.
Cần lưu ý rằng khi nguồn trí tuệ và năng lượng của Phật giáo được xã hội trân trọng, tạo điều kiện và môi trường để nó phát huy, chính vào những thời điểm ấy Phật giáo phát triển, đất nước yên bình, thịnh trị, nhân dân ấm no. Trang sử oai hùng, độc lập, tự cường của hai triều đại Lý-Trần kéo dài trên dưới 400 năm là những bằng chứng cụ thể minh họa cho mối tương tác bất ly giữa Dân tộc và Đạo pháp. Điều đáng ghi nhận ở đây là tầm nhìn và kinh nghiệm của tiền nhân Lý-Trần đã và đang được các thế hệ con cháu người Việt duy trì và phát triển, đặc biệt trong thời đại ngày nay. Với những sự hỗ trợ có ý nghĩa, Phật giáo đang phát huy nội lực của mình để góp phần xây dựng đất nước thêm phần giàu đẹp. Tuy nhiên, trong một môi trường sống bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng thực dụng, vật chất của thế giới đương thời, những giá trị luân lý, đạo đức tốt đẹp của dân tộc quả thật vẫn đang bị thách thức.
Đặc biệt, với làn sóng toàn cầu hóa đang bành trướng một cách sâu rộng khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, văn hóa, văn minh của nhiều xứ sở đang bị cuốn trôi trong từng ngày, từng giờ thì kinh nghiệm xương máu của các tiền nhân trong sự nghiệp xây dựng được một xã hội, an bình, thịnh trị, độc lập, tự cường lại cần phải được suy gẫm. Hiển nhiên, nền văn hóa của dân tộc nào thiếu sự trân trọng giữ gìn, bồi dưỡng, và phát huy, nền văn hóa ấy sớm muộn cũng sẽ trở thành nạn nhân của ngọn thác toàn cầu hóa này. Ý thức được mối nguy hiểm này, giới lãnh đạo quốc gia đã có những hành động cụ thể trong việc bảo vệ và phát huy truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc! Tất nhiên, mọi thành công của việc làm có ý nghĩa này đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ lực từ nhiều phía của xã hội, trong đó có Phật giáo.
Để có thể đóng góp một cách thiết thực và hiệu quả hơn, Phật giáo hy vọng xã hội sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi và nhiều không gian hơn nữa, đặc biệt là trong các lãnh vực văn hóa, giáo dục, hoằng pháp để Phật giáo Việt Nam có cơ hội phục vụ cho mục đích cao đẹp này. Bởi lẽ, văn hóa, giáo dục, hoằng pháp là những ban ngành có sự quan hệ và đóng góp trực tiếp vào cách suy tư và lối sống của người dân. Ngang qua hoạt động của các ngành này, những giá trị văn hóa dân tộc được nối kết với giáo lý Phật giáo sẽ được truyền trao đến các thế hệ người Việt. Chắc chắn rằng những tinh hoa của đạo Phật và những giá trị văn hóa Việt Nam sẽ được quần chúng tiếp thu và hiện thực hóa vào đời sống của mình. Nếu các thế hệ sinh viên, học sinh trong học đường có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với những hoạt động văn hóa - giáo dục của đạo Phật, chúng tôi thiết nghĩ rằng tinh hoa của văn hóa Việt Nam và tinh thần từ bi trí tuệ của đạo Phật sẽ thấm nhuần vào tư duy, suy nghĩ và lối sống của con cháu chúng ta.
Tất cả nỗ lực mà xã hội và Phật giáo đang đầu tư đều vì một mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nếu có bất cứ sự thành công nào, ấy là sự thành công của mối quan hệ tốt đẹp của Dân tộc và Đạo pháp! Xin mượn lời phát biểu của cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, và có lẽ cũng là tôn chỉ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, để làm phần kết cho bài viết này: “Những gì tôi làm cho Dân tộc chính là làm cho Đạo pháp; những gì tôi làm cho Đạo pháp cũng chính là làm cho Dân tộc”10.
Thiền thất Từ Mãn
Viên Trí
__________________
1 A.Toynbee-D. Ikeda, Man Himself Must Choose, Tokyo-USA, 1976
2 Viên Trí, Ấn Độ Phật giáo sử luận, NXB.Phương Đông - 2006
3 Viên Trí, Khái niệm về Bồ-tát Quán Thế Âm, NXB.Tôn Giáo - Hà Nội, 2005.
4 Will Durant, The Story of Philosophy, Washington Squar Press. 1961
5 Thích Minh Châu, Tăng chi bộ kinh, tập I, VNCPHVN
6 Thích Minh Châu, Trung bộ kinh, tập I, VNCPHVN.
7 Hermann Hesse, Giải Nobel Văn chương, đã phát biểu: “Đức Phật là hiện thân của tất cả những đức hạnh mà Ngài giảng dạy. Trong suốt 45 năm thuyết giảng thành công và sinh động, Đức Phật đã thể hiện lời nói của mình bằng hành động”. Xem ‘J.C Cleary - Phương Thuần, Bước đầu học Phật, Giao Điểm, 2002.
8 Xem “Nietzsche and Philosophy” Ed. By Gilles Deleuze, Hugh Tomlinson (dịch).
9 W. Rahula: “What ‘s in a name? That which we call a rose, By any other name would smell as sweet”; Xem “What the Buddha Taught” Gordon Fraser, London, p.5
10 Trích “Trí Thủ toàn tập”.